Cao huyết áp là căn bệnh khá nguy hiểm, đặc biệt khi nó bị biến chứng. Mẹ tôi cũng bị cao huyết áp và tôi đã tìm kiếm thông tin để giúp bà chữa trị đúng chổ. Vì vậy, tôi xin copy và đưa lên trên trang blog. Xin chân thành cảm ơn các tác giả và trang web/blog đã chia sẽ thông tin.
Bệnh cao huyết áp 2
TỰ ÐẮP THUỐC LÀM GIẢM HUYẾT ÁP Ở NGƯỜI CAO TUỔI 4
Điều trị đúng mức bệnh cao huyết áp 5
Những việc cần làm để điều trị tốt bệnh tăng huyết áp: 7
Trong quá trình điều trị khi theo dõi huyết áp tại nhà bạn cần lưu ý: 10
Về thuốc điều trị tăng huyết áp 11
Bệnh cao huyết áp và cách điều trị mới trong đông y 12
Đề phòng tai biến khó lường do tăng huyết áp 13
HƯỚNG DẪN DÀNH CHO NGƯỜI CAO HUYẾT ÁP 16
8 bài thuốc dành cho người tai biến mạch máu não 21
Thực phẩm cho người đái tháo đường, cao huyết áp 23
Dùng táo mèo chữa cao huyết áp 24
7 bí quyết giảm huyết áp cao 27
Các bài thuốc bí truyền chữa cao huyết áp 28
Kiến thức cần biết về bệnh tăng huyết áp 29
Mẹo nhỏ làm giảm cơn tăng huyết áp 31
Dinh dưỡng cho bệnh tăng huyết áp 32
Cách đơn giản phòng tăng huyết áp 33
Trị cao huyết áp bằng các loài hoa 35
Tìm ra bí mật của bệnh cao huyết áp 36
Bài thuốc hay chữa tai biến mạch não 37
Giun đất và khả năng điều trị tăng huyết áp 38
Bệnh cao huyết áp
Bác Sĩ Nguyễn Văn Đức
Nước Mỹ nay 281 triệu người,trong đó,hơn 60 triệu người mang bệnh cao áp huyết (bạn tính,chưa đến 5 người,đã có 1 người cao áp huyết).
Bệnh cao áp huyết (hypertension,high blood pressure) nguy hiểm,đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke),chết cơ tim cấp tính (heart attack),suy tim,suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ.Khổ cái,trong đa số các trường hợp,cao áp huyết không gây triệu chứng.Nhiều vị không biết mình mang bệnh,tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác,được bác sĩ cho biết có cao áp huyết.Cho nên,cao áp huyết nổi danh là một ‘’căn bệnh thầm lặng’’.
Cao áp huyết là gì? Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch.Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn.Khi máu được tim bơm đầy,và chảy trong lòng các mạch máu,sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure).Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể.Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ,nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động,buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục,chơi thể thao.
Áp huyết được diễn tả bằng 2 số, thí dụ: 140/90.Số trên (140) được gọi là áp suất systolic (áp suất tâm thu): Sức ép của máu vào lòng động mạch mỗi khi tim co bóp để bơm máu ra khỏi tim.Số dưới (90) được gọi áp suất diastolic (áp suất tâm trương): Áp suất trong lòng động mạch khi con tim dãn ra giữa hai nhịp co bóp.Số trên tượng trưng áp suất cực đại (maximum) trong lòng động mạch và số dưới tượng trưng áp suất cực tiểu (minimum) trong lòng động mạch.
Theo sự phân loại mới,áp suất systolic bình thường dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80.Áp huyết từ 140/90 trở lên được xem là cao (đo ít nhất 3 lần,vào 3 dịp khác nhau),cao độ
1: Áp suất systolic: 140 đến 159,áp suất diastolic: 90 đến 99,cao độ 2: áp suất systolic: từ 160 trở lên,áp suất diastolic: từ 100 trở lên.
Những vị có áp suất systolic trong khoảng từ 120 đến 139,hoặc áp suất diastolic từ 80 đến 89,nay được xem là tiền cao áp huyết (prehypertension),sau dễ tiến đến cao áp huyết.
NGUYÊN NHÂN
Ðến 90% các trường hợp cao áp huyết,nguyên nhân của bệnh chưa được biết rõ,hoặc nói cách khác,với trình độ y khoa hiện tại,người ta chưa tìm ra được nguyên nhân.Một số như các trường hợp cao áp huyết gây do uống rượu nhiều quá,do bệnh của tuyến nội tiết,bệnh thận.
Có một số yếu tố ảnh hưởng,khiến người nọ có thể dễ mang bệnh cao áp huyết hơn người kia:
- Yếu tố gia đình: Cao áp huyết có tính di truyền.Có cha mẹ,anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ,bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này bạn nhé.
- Ðàn ông: Ðàn ông dễ cao áp huyết hơn phụ nữ.Tuy vậy,phụ nữ,sau khi mãn kinh, cũng dễ cao áp huyết hơn lúc còn kinh.
- Tuổi tác: Cao áp huyết dễ xảy ra sau tuổi 35.
- Giòng giống: Người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.
- Béo mập: Khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.
- Bệnh tiểu đường: Tiểu đường và cao áp huyết như đôi bạn thân,hay đi đôi với nhau, lại cùng nhau phá hoại tim và thận mạnh hơn.
- Rượu: Các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết,đồng thời cũng làm tăng tỷ lệ bị tai biến mạch máu não và bệnh thận.
- Ðời sống thiếu vận động: Ðời sống thiếu vận động dễ gây béo mập và béo mập,như đã biết,có thể đưa đến cao áp huyết.
BIẾN CHỨNG CỦA CAO ÁP HUYẾT
Bệnh cao áp huyết,không chữa trị,làm hại cơ thể ta nhiều cách.Áp huyết cao hơn bình thường khiến tim và các mạch máu phải làm việc nhiều hơn.Con tim lúc nào cũng gắng sức, sau trở thành mệt mỏi và yếu dần.Cho đến một lúc,con tim suy yếu sẽ không còn bơm đủ máu,không đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan trong cơ thể,nhất là khi người bệnh vận động,gây các triệu chứng mau mệt,choáng váng,khó thở...,nhất là khi vận động.
Áp suất cao trong các mạch máu có thể làm tổn thương thành của các mạch máu. Nhưng chỉ tổn thương trong lòng các mạch máu dễ bị chất mỡ cholesterol và các tế bào tiểu cầu (platelet) luôn luôn có sẵn trong máu bám vào.Cơ chế dây chuyền này lại càng làm lòng các mạch máu tổn thương thêm nữa và dần dần nhỏ hẹp lại.Bạn tưởng tượng,nếu các mạch máu dồn máu đến nuôi tim càng lúc càng tổn thương và nhỏ hẹp lại,dĩ nhiên đến một ngày nào đó,sẽ không còn mang đủ máu đến để nuôi tim.Nếu một phần tim thiếu máu nuôi trầm trọng,phần tim đó có thể chết và gây ra hiện tượng chết cơ tim cấp tính (heart attack).
Tương tự,cao áp huyết làm tổn thương các mạch máu nuôi óc,nuôi thân,nuôi mắt,... gây các biến chứng tai biến mạch máu não,suy thận,giảm thị giác,...So với người thường, người cao áp huyết,nếu không chữa,dễ bị bệnh hẹp tắc các động mạch tim khiến tim đâm ra thiếu máu nuôi (ischemic heart disease) gấp 3 lần,dễ suy tim gấp 6 lần và dễ bị tai biến mạch máu não gấp 7 lần.
ĐỊNH BỆNH
Ða số người cao áp huyết không có triệu chứng.Một số vị có những triệu chứng mơ hồ như hồi hộp (cảm thấy tim đập mạnh),nhức đầu,chóng mặt,...Cách tốt nhất,cứ 1-2 năm,dù chẳng cảm thấy mình có bệnh gì,bạn cũng nên đi khám bác sĩ và nhớ đo áp huyết,nhất là nếu bạn lại có những yếu tố không tốt như đã kể trên.
Với bác sĩ,định bệnh cao áp huyết thường chẳng khó gì.Một người xem là có cao áp huyết,nếu áp huyết cao từ 140/90 trở lên,đo 3 lần vào 3 dịp thăm khám khác nhau (người bệnh không nên dùng cà-phê,hút thuốc lá trước đó,nên ngồi nghỉ một lát,rồi áp huyết được đo ở tư thế ngồi hay nằm).Sau khi xác định một người có cao áp huyết,để tìm xem các cơ quan bên trong cơ thể đã tổn thương do cao áp huyết hay chưa,để từ đó,sẽ hoạch định đường hướng trị liệu,bác sĩ sẽ khám kỹ mắt,tim,các mạch máu.Ðồng thời, bác sĩ cho thử máu,thử nước tiểu, làm tâm điện đồ và chụp phim ngực (chest X-ray: chúng ta hay quen miệng gọi phim phổi). Những thử nghiệm và phim ngốc này giúp bác sĩ tìm hiểu thêm được người bệnh có cao cholesterol trong máu hay không,tim,thận đã tổn thương vì cao áp huyết hay chưa.Ðây là những yếu tố quan trọng cần nắm vững trước khi bác sĩ quyết định trị liệu bằng phương cách nào.
A.- Nhưng nếu bạn mang bệnh cao áp huyết,khi đi khám bệnh,bạn nên kể bệnh như thế nào nhỉ.Hay ta thử nghe một vị biết cách kể bệnh,trình bày cho bác sĩ nghe vấn đề cao áp huyết của mình:
Tôi đến đây hôm nay nhờ bác sĩ xem hộ tôi bệnh cao áp huyết.Tôi năm nay 45 tuổi, sang Mỹ mới 1 tháng.2 năm trước,một hôm đau bụng,tôi đi khám bác sĩ,được bác sĩ cho biết áp huyết tôi hôm đó 142 trên 90.Áp huyết đo lại 2 lần sau đó cũng vẫn cao trên 140/90.Bác sĩ kết luận là tôi có cao áp huyết nhẹ.Bác sĩ cho thử máu,thử nước tiểu,làm tâm điện đồ,chụp phim phổi (tôi nghe nói,ở bên này,người Mỹ gọi là ‘’chest X-ray’’,dịch là phim ngực),và cho biết tôi không bị tiểu đường,cao cholesterol hay bị bệnh gì khác.Sau 3 tháng theo dõi và khuyên tôi bỏ thuốc lá,ăn lạt,thường xuyên vận động không có kết quả,bác sĩ cho tôi uống Aldomet 250 mg,ngày 3 lần.Áp huyết tôi xuống còn 120/80,bác sĩ bảo là tốt.Có điều Aldomet hay làm tôi mệt mỏi và buồn ngủ.Giữa tôi với bác sĩ,tôi cũng xin nói thực,nó cũng làm vấn đề chồng vợ của tôi bị suy giảm.Tôi ngưng Aldomet từ ngày qua Mỹ 1 tháng trước và từ đó đến nay,không dùng thuốc gì cả.Tôi hoàn toàn không có triệu chứng gì bất thường.Tôi bỏ hẳn thuốc lá 2 năm trước,khi được biết bị cao áp huyết,theo lời khuyên của bác sĩ.Tôi không uống rượu thường xuyên,chỉ thỉnh thoảng cuối tuần làm vài lon bia với bạn bè cho vui.
Bạn cũng nhớ cho bác sĩ biết bạn có hút thuốc lá,có uống rượu,hoặc đang dùng bất cứ thuốc nào không,kể cả những thuốc mua bên ngoài không cần toa bác sĩ,vì nhiều thuốc,như thuốc ngừa thai,thuốc chữa sổ mũi,nghẹt mũi (Actifed, Dimetapp, Sudafed,...) có thể làm áp huyết tăng cao.
CHỮA TRỊ
Cao áp huyết cần được chữa trị cẩn thận,để giảm thiểu những biến chứng,giúp ta sống lâu hơn và vui hơn.Sự chữa trị tùy vào mức độ của căn bệnh và cũng tùy vào nhiều yếu tố khác.
Các phương pháp chữa trị lúc chưa cần dùng đến thuốc: Xuống cân nếu béo mập,ăn một thực phẩm ít mặn và ít chất béo,bỏ thuốc lá,bớt uống rượu,thường xuyên vận động.Mỗi người có một sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người.Nếu người cao áp huyết có sức nặng trên sức nặng lý tưởng,bác sĩ thường khuyên người bệnh tìm cách xuống ký bằng ăn kiêng (diet) và vận động (exercise).
Về mặt chữa bằng thuốc,có rất nhiều điều bác sĩ cần suy tính trước khi đặt bút biên toa. Ta cố đưa áp huyết xuống dưới 140/90 (ở người tiểu đường,người suy thận,nên dưới 130/80), với một thuốc rẻ,không gây phản ứng phụ (side effects),ngày dùng chỉ một lần cho tiện. (Nguyên tắc rẻ,đẹp,bền ở đâu cũng đúng.)
Thuốc chữa cao áp huyết ở Mỹ nay có 8 loại: Diuretics,ACE inhibitors,Angiotensin II receptor blockers,Calcium channel blockers,Beta blockers,Alpha blockers,Direct vasodilators, Centrally acting agents, tác dụng theo những cơ chế khác nhau,giá cả cũng rất khác biệt.
Thuốc nào cũng có mặt lợi và hại,cùng những tác dụng phụ của nó.Trong đa số các trường hợp cao áp huyết,những tài liệu hiện thời ở Mỹ đều khuyên chúng ta nên thử thuốc thuộc loại Diuretics (lợi tiểu) trước,vì thuốc này gần với nguyên tắc ‘’rẻ,đẹp,bến’’ nhất,rất hữu hiệu,lại rẻ,dùng lâu dài không cháy túi tiền.
Nhiều thuốc cao áp huyết có tác dụng chữa được cả bệnh khác,chẳng hạn các thuốc propanolol,timolol ngừa được các cơn nhức đầu một bên migraine,hai thuốc Hytrin,Cardura làm giảm các triệu chứng của bệnh to nhiếp hộ tuyến.Khéo dùng thuốc,ta có thể một ná bắn hai chim,dùng một thuốc chữa cả hai bệnh.
Bạn nên uống thuốc đều,không nên tự thay đổi lượng thuốc hoặc ngưng thuốc khi thấy áp huyết đã xuống lại bình thường và nhớ trở lại tái khám đúng hẹn với bác sĩ.Cao áp huyết là bệnh kinh niên,suốt đời ta cần chữa kỹ.
Sự chữa trị nào trong y khoa cũng là tính toán,dò dẫm,bạn nên để bác sĩ có dịp thi thố tài năng vài lần.Dùng một thuốc cao áp huyết không hợp,gây cho bạn phản ứng khó chịu,bạn nên trở lại cho bác sĩ biết,nhờ bác sĩ điều chỉnh sự chữa trị,có khi đổi một thuốc khác xem sao. Bạn chớ vội nghe rỉ tai: Thuốc tây ‘’nóng’’ lắm,chỉ nên dùng (như thế thì...tội cho thuốc tây lắm lắm,một thuốc làm bạn khó chịu,hàng trăm thuốc khác hàm oan).Rồi mất tiền vào những chữa trị chẳng có sách vở nào nói đến,cho đến một sáng đẹp trời,bạn mở mắt thức dậy,thấy một bên người liệt vì tai biến mạch máu não.Muộn mất rồi.
Cao áp huyết,‘’căn bệnh thầm lặng’’,lặng lẽ làm tổn thương các cơ quan của cơ thể và rút ngắn tuổi thọ.Khám phá anh chàng thầm lặng này,đặt anh ta vào vòng kiểm soát,ta cứu vãn được nhiều việc.
TỰ ÐẮP THUỐC LÀM GIẢM HUYẾT ÁP Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Tác giả : BS. QUÁCH TUẤN VINH (Phòng Quân y TCCT)
Tính trung bình hàng năm, số bệnh nhân bị các tai biến nguy hiểm của cao huyết áp dẫn đến tử vong, như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim có xu hướng ngày càng tăng... Trước tình hình này, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra khuyến cáo: Tăng huyết áp là một căn bệnh giết người hàng loạt.
Có nhiều phương pháp phòng ngừa và điều trị cao huyết áp như dùng thuốc, điều chỉnh hành vi lối sống... Trong bài viết này, xin giới thiệu cùng bạn đọc một phương pháp điều trị cao huyết áp đơn giản, đó là đắp thuốc vào huyệt dũng tuyền.
DÁN THUỐC VÀO HUYỆT, MỘT PHƯƠNG PHÁP ÐƠN GIẢN
Ðông y có rất nhiều cách điều trị căn bệnh cao huyết áp, như châm cứu, bấm huyệt, dùng thuốc, khí công... Ngoài các phương pháp trên, còn có một phương pháp rất đơn giản mà bệnh nhân có thể tự áp dụng được. Ðó là đắp thuốc vào huyệt.
Phương huyệt chủ yếu: Là huyệt dũng tuyền, huyệt này còn có một số tên gọi khác như địa xung, quệ tâm, quyết tâm, địa cù... Theo y học cổ truyền phương Ðông, dũng tuyền là tỉnh huyệt thuộc kinh túc thiếu âm thận, ý nói là sự khởi nguồn của kinh khí; Và là một trong tam tài (Thiên - Ðịa - Nhân), trong đó dũng tuyền là địa, đản trung là nhân, bách hội là thiên, vị trí nằm ở giữa lòng bàn chân. Người ta thường xác định huyệt ở vị trí 1/3 trước của đường thẳng đi dọc qua gan bàn chân, có tác dụng kích thích, nâng cao chính khí của thận tạng. Thường được chỉ định chữa các bệnh như trúng phong (tai biến mạch máu não), cao huyết áp, mất ngủ, động kinh, bệnh tâm thần, nhức đỉnh đầu... Kinh nghiệm của tiền nhân cho thấy có thể ôn châm hoặc cứu huyệt vị này và phối hợp với một số các huyệt khác để nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
Phương thuốc chủ yếu: Thường dùng quả chín hay phơi khô của cây ngô thù du (Eyodia rutaearpa (Juss) Benth) để làm thuốc. Tại Trung Quốc thù du có ở nhiều nơi, nhưng mọc ở đất Ngô thì tốt hơn nên người xưa gọi ngô thù du để phân biệt thù du ở các địa phương khác. Hiện nay, chúng ta còn phải nhập vị thuốc này. Nhưng theo GS. Ðỗ Tất Lợi, thù du đã được phát hiện ở Hà Giang nước ta, nhân dân vùng này gọi là cây xà lạp, dùng chữa đau bụng, nóng sốt... Theo Ðông y, ngô thù du có vị cay đắng, tính ôn, hơi độc; Vào 4 kinh can, thận, tỳ và vị. Dân gian thường dùng để chữa chứng ăn uống không tiêu, nôn mửa, đau bụng, cước khí, tiêu chảy, đau đầu. Còn được dùng điều trị một số trường hợp khác như đau nhức mình mẩy, chân lưng yếu, đau răng, lở ngứa... Liều dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc hoặc 1-3g dưới dạng thuốc bột, chia 3-4 lần uống trong ngày. Tài liệu cổ có nêu, nếu không phải hàn thấp chớ nên dùng.
Theo y học hiện đại, ngô thù du có chứa những hoạt chất như tinh dầu và một số alkaloid như evodiamin, rutacaecacpin, wuchuyin... Chất rutacaecacpin khi bị phân giải sẽ cho rutamin có cấu trúc hóa học là indol etylamin (Ðỗ Tất Lợi). Tác dụng sinh học trên tim mạch đã được chứng minh có tác động đến huyết áp.
PHƯƠNG PHÁP DÁN THUỐC
Ngô thù du đem giã nhỏ mịn, trộn với dấm thanh thành dạng hồ đặc, dùng lá tươi (lá chuối, lá bàng, lá sen...) cắt thành miếng nhỏ 7 x 7 cm, phết ngô thù du thành một lớp mỏng trên mặt lá. Ðắp lá thuốc nói trên vào huyệt dũng tuyền. Sau đó dùng băng vải hoặc băng dính cố định lại miếng cao thuốc, ngày đắp 1 lần. Nên đắp trước khi đi ngủ, sáng hôm sau có thể tháo miếng thuốc để không ảnh hưởng đến sinh hoạt và làm việc. Nếu có điều kiện đắp được 24 giờ càng tốt.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, sau khi đắp thuốc 12-24 giờ, huyết áp bắt đầu hạ xuống, các dấu hiệu trực giác của người bệnh giảm nhẹ. Bệnh nhẹ đắp 1 lần, bệnh nặng đắp 2-3 lần là có hiệu quả giảm huyết áp rõ rệt.
KẾT LUẬN
Trong thực tiễn lâm sàng, chúng tôi nhận thấy đắp thuốc vào huyệt cho hiệu quả tốt, có tác dụng làm hạ huyết áp một cách căn bản; Nhưng nên phối hợp với các phương pháp điều trị khác để nâng cao hiệu quả.
Ðây là một phương pháp đơn giản, bệnh nhân có thể tự áp dụng dễ dàng. Tuy nhiên, cần chú ý thường xuyên theo dõi huyết áp trong suốt quá trình trị liệu... Nếu sau khi đắp thuốc vài ngày, huyết áp chưa hạ được đến mức an toàn thì nên phối hợp thêm các phương pháp khác như dùng thuốc Ðông y dưới dạng thuốc sắc, châm cứu, bấm huyệt. Nếu cần thiết, vẫn nên dùng các thuốc Tây y để đạt được mục tiêu trước mắt.
Vị thuốc ngô thù du có thể dễ dàng tìm mua tại các cửa hàng thuốc Bắc. Vào thời điểm hiện nay, giá chỉ vào khoảng 10.000đ/100g, thiết nghĩ là chi phí khá hợp lý, có thể chấp nhận được cho một liệu trình điều trị.
Điều trị đúng mức bệnh cao huyết áp
BS Phan Hữu Phước - Thạc Sĩ Lão Khoa
Trưởng khoa Lão học – BV. Nguyễn Trãi
Theo Tổ chức Y tế Thế giới hiện nay tăng huyết áp được xem là một trong 10 bệnh nguy hiểm ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ nhân loại có thể làm giảm thọ từ 10 đến 20 tuổi. Thực tế cũng đã cho thấy hậu quả của việc điều trị không đúng bệnh tăng huyết áp sẽ dẫn đến tình trạng huyết áp tăng cao đột ngột có thể làm đứt mạch máu não gây xuất huyết não, đột quỵ, suy tim cấp, phù phổi cấp hay tình trạng huyết áp tăng vừa phải thường xuyên sẽ gây ra suy tim mãn, suy thận mãn, tổn thương ở đáy mắt. Qua đó chúng ta thấy hầu hết các biến chứng này đều nguy hiểm tính mạng hoặc không hồi phục. Nhưng trong thực tế việc điều trị tốt bệnh tăng huyết áp để tránh các tai biến nguy hiểm này là đều không dễ dàng thực hiện được. Tại nhiều nước trên thế giới việc kiểm soát tốt bệnh tăng huyết áp vẫn ở một tỷ lệ khá thấp. Chẳng hạn như bệnh nhân tăng huyết áp được kiểm soát tốt huyết áp dưới mức 140/90mmHg tại Mỹ là 24%, tại Pháp là 24%, tại Canađa là 16%, tại Anh quốc là 6% và tại nhiều nước đang phát triển con số này cũng chỉ khoảng 1- 2%. Qua các con số này cho chúng ta thấy cứ 100 người bị tăng huyết áp thì chỉ khoảng 10 người là có huyết áp được điều trị tốt dưới 140/90mmHg còn là 90 người huyết áp luôn ở mức gây hại cho sức khoẻ. Như vậy làm sao để điều trị tốt bệnh tăng huyết áp và phòng ngừa được các biến chứng của nó, đó chính là mục tiêu của bài nói hôm nay. Để đạt được mục tiêu này chúng ta cần xem và hiểu 3 vấn đề cơ bản sau đây:
1. Các yếu tố nào làm bệnh tăng huyết áp trở nên nguy hiểm hơn.
2. Làm gì để điều trị tốt bệnh tăng huyết áp.
3. Cách theo dõi huyết áp tại nhà khi đang điều trị tăng huyết áp.
Theo quan niệm hiện nay của Tổ chức Y tế Thế giới thì huyết áp thấp hơn 120/80mmHg được xem là huyết áp tối ưu không gây hại cho sức khoẻ. Trong đó 120 gọi là số huyết áp trên 80 gọi là số huyết áp dưới. Gọi là tăng huyết áp khi số trên cao hơn 140mmHg hoặc số huyết áp dưới cao hơn 90mmHg.
Gọi là tăng huyết áp độ 1 hay độ nhẹ khi: số huyết áp trên từ 140 đến 159mmHg hoặc số huyết áp dưới từ 90 đến 99mmHg.
Gọi là tăng huyết áp độ 2 hay độ trung bình khi: số huyết áp trên từ 160 đến 179mmHg hoặc số huyết áp dưới từ 100 đến 109mmHg.
Gọi là tăng huyết áp độ 3 hay độ nặng khi: số huyết áp trên từ 180mmHgtrở lên hoặc số huyết áp dưới từ 110mmHg trở lên.
Khi số huyết áp trên và dưới thuộc 2 độ khác nhau thì chọn độ theo số huyết áp cao hơn.
Khi đã xác định có bị tăng huyết áp bạn cần xác định thêm 4 yếu tố sẽ làm tác động xấu hơn bệnh tăng huyết áp của bạn. Bốn yếu tố này là:
1. 8 yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch.
2. Tổn thương nội tạng trong cơ thể do tăng huyết áp
3. Bị bệnh đái tháo đường.
4. Có một số bệnh lý khác đi kèm.
Khi bạn càng có`nhiều yếu tố trong 4 yếu tố này thì khả năng bị tai biến do bệnh tăng huyết áp càng tăng cao. Các yếu tố này cụ thể như sau:
8 yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch:
1. Mức độ tăng của số huyết áp trên và số huyết áp dưới từ độ 1 đến độ 3.
2. Phái nam trên 55 tuổi.
3. Phái nữ trên 65 tuổi.
4. Có hút thuốc lá.
5. Bị rối loạn mỡ trong máu. Cụ thể là Cholesterol toàn phần trong máu cao hơn 6,5mmol/l hoặc 250mg%. Hoặc cholesterol gây hại có tênLDL-c cao hơn 4mmol/l hay 155mg% hoặc cholesterol bảo vệ có tên là HDL-c thấp hơn 40mg% ở nam, hay 48mg% ở nữ.
6. Trong gia đình có người bị bệnh tim mạch sớm nam dưới 55 tuổi, nữ dưới 65 tuổi.
7. Bị béo phì vòng bụng, nam có vòng bụng trên 102cm hay nữ có vòng bụng trên 88cm.
8. Trong máu loại protein có tên protein phản ứng C cao hơn 1mg/dl.
Các dạng tổn thương cơ quan nội tạng do tăng huyết áp:
1. Lớn tim: biểu hiện trên điện tâm đồ, siêu âm tim, chụp x quang tim.
2. Suy thận mãn, tổn thương thận dưới dạng tiểu vi đạm niệu.
3. Tổn thương đáy mắt: xuất huyết, xuất tiết võng mạc, phù gai thị.
Bị bệnh đái tháo đường:
Tức là đường trong máu khi đói cao hơn 7mmol/l hoặc đường trong máu sau ăn tăng lên 11mmol/l hoặc 198mg%.
Có các bệnh lý khác đi kèm:
1. Đã bị tai biến mạch máu não dù nặng hay nhẹ.
2. Bệnh tim do thiếu máu cơ tim cục bộ dưới các mức độ: cơn đau ngực, nhồi máu cơ tim.
3. Đã bị suy tim, suy thận…
4. Các dạng bệnh lý mạch máu ngoại biên.
Khi đã xác định được tất cả các yếu tố tác động xấu thêm bệnh tăng huyết áp. Bạn phải có thái độ điều trị tích các yếu tố này có thể được
Những việc cần làm để điều trị tốt bệnh tăng huyết áp:
Để điều trị tốt bệnh tăng huyết áp bạn cần thực hiện 3 điều sau đây:
* Đưa được huyết áp vế thấp hơn 140/90mmHg.
* Thực hiện tốt các biện pháp điều trị không dùng thuốc và có dùng thuốc
* Điều trị các bệnh lý khác đi kèm theo.
Điều trị để mức huyết áp thấp hơn 140/90mmHg là bạn đã tự giúp cơ thể mình trách được các biến chứng nguy hiểm của bệnh tăng huyết áp như: giảm 40% khả năng bị đứt mạch máu não, 50% khả năng bị suy tim mãn, giảm 30% khả năng bị tai biến mạch máu não tái phát, và nhiều biến chứng khác… Như vậy để đạt được các lợi ích này bạn cần thực hiện các điều sau đây:
* Thực hiện tốt việc điều trị lhông dùng thuốc và việc điều trị có dùng thuốc.
* Điều trị các bệnh lý khác đi kèm theo nếu có.
Trong điều trị không dùng thuốc bạn cần thực hiện 10 điểm sau đây:
1. Nếu bị béo phì, nên áp dụng chế độ ăn giảm cân: ít đường, ít mỡ, nhiều chất đạm và chất xơ rau quả, trái cây.
2. Nên ăn lạt, không ăn quá 1 muỗng cà- phê muối mỗi ngày. Lượng muối này bao gồm cả lượng muối được nêm trong thức ăn và nước chấm.
3. Nên ăn chất đạm có nguồn gốc từ cá và thực vật hơn là các loại thịt heo, bò, gà…
4. Không nên ăn quá ngọt ngay cả khi không bị tiểu đường…
5. Hạn chế ăn mỡ động vật và dầu dừa. Tốt nhất là dùng dầu ô- liu, dầu hướng dương, dầu mè, dầu đậu nành.
6. Nên ăn nhiều rau cải, trái cây để cung cấp nhiều chất khoáng, vitamin và chất xơ.
7. Ngừng hoặc hạn chế uống nhiều rựơu.
8. Bỏ hẳn hút thuốc lá.
9. Giữ nếp sinh hoạt điều độ, ổn định. Tránh trạng thái căng thẳng, xúc động, lo âu.
10. Rèn luyện thân thể thường xuyên: tập thể dục đều đặn ít nhất 45 phút mỗi ngày, 3 lần trong một tuần nhưng không nên gắng sức.
Trong các vấn đề điều trị không dùng thuốc nêu trên thì hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ nếu có thể loại bỏ được, bỏ hút thuốc lá mang lại các lợi ích sau cho sức khỏe:
Lợi ích tức thì:
• 20 phút sau ngưng hút thuốc lá huyết áp, mạch và nhiệt độ trở về bình thường.
• Sau 24 giờ các cơn đau tim bắt đầu giảm.
• Sau 48 giờ ăn uống thấy ngon miệng hơn.
• Sau 72 giò phế quản dãn ra hơn, hô hấp dễ dàng hơn, lượng không khí hít thở tăng nhiều hơn.
• Sau 1-9 tháng giảm được những cơn ho, tình trạng thở ngắn và thiếu hơi thở.
Lợi ích lâu dài:
• Sau vài tháng ngưng htuốc lá nguy cơ bệnh mạch vành tim bắt đầu giả rõ rệt và sau 3- 5 năm trở về giống như người chưa hút thuốc lá.
• Sau10 năm ngưng hút thuốc lá nguy cơ ung thư phổi giảm 30-50%, sau 15 năm nguy cơ ung thư phổi giống như người chưa hút thuốc lá.
• Ngưng hút thuốc lá còn làm giảm nguy cơ ung thư khác như ung thư thanh quản, thực quản, tuỵ tạng, bàng quang.
• Ngưng hút thuốc lá còn làm giảm các bệnh lý khác như tai biến mạch máu não, tắc mạch máu ở chân, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, viêm phổi và cải thiện được tình trạng khí phế thủng, viêm phế quản.
• Ở bệnh nhân tiểu đường ngưng hút thuốc lá làm giảm biến chứng tim mạch và tai biến mạch máu não.
Ngoài vấn đề hút thuốc lá thì uống rượu cũng có nhiều vấn đề cần quan tâm:
1. Uống rượu quá nhiều, thường xuyên say xỉn rất dễ bị đột quỵ,tai biến mạch máu não.
2. Có sự tỉ lệ thuận giữa bệnh tăng huyết áp và sự uống rượu.
3. Người đang uống nhiều thường xuyên khi ngừng rượu khi ngừng rượu đột ngột huyết áp có thể tăng vọt lên và gây tai biến. Do đó nếu bạn đang nghiện rượu khi bỏ rượu cũng phải giảm từ từ trong 3 tháng đến mức độ có thể chấp nhận được.
4. Lượng rượu bia tối đa mà bạn có thể uống mà không gây ảnh hưởng đến tim mạch là không quá 2 lon bia hay 60ml rượu mạnh hoậc1/4 xị rượu đế một ngày.
Điều trị có dùng thuốc:
Mục tiêu: Đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg.
Trong điều trị có dùng thuốc bạn cần lưu ý 3 điểm:
1. Phải tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ, tái khám đúng kỳ hẹn. Bạn không nên tự ý mua thuốchạ huyết áp để uống hay uống thuốc theo chỉ dẫn của người quen, lối xóm hay bạn bè lhông phải là bác sĩ.
2. Theo quan niệm hiện nay thuốc hạ huyết áp nên được sử dụng sớm khi có chỉ định và nên phối hợp nhiều loại thuốc hạ huyết áp với liều thấp hơn là sử dụng một loại thuốc với liều cao.
3. Sáu nhóm thuốc hạ huyết áp thường được sử dụng hiện nay có tên là khoa học.
1. Nhóm thuốc lợi tiểu.
2. Nhóm thuốc chẹn kênh canxi
3. Nhóm thuốc ức chế thụ thể bêta
4. Nhóm thuốc ức chế thụ thể alpha
5. Nhóm thuốc ức chế men chuyển
6. Nhóm thuốc ức chế thụ thể angiotensinll
Trong 6 nhóm thuốc chính nêu trên mỗi nhóm có nhiều thế hệ mỗi thế hệ có nhiều dẫn xuất khác nhau, mỗi dẫn xuất lại có nhiều tên thương mạikhác nhau do vậy trên thị trường thuốc hiện nay có đến vài trăm tên thuốc hạ huyết áp.
Khi chọn lựa thuốc huyết áp cho người bệnh thầy thuốc sẽ căn cứ vào 6 yếu tố sau đây:
1. Loại thuốc bệnh nhân đã dùng trước đó và sự dung nạp hay phản ứng phụ của bệnh nhân với loại thuốc này.
2. Khả năng kinh tế của bệnh nhân đáp ứng cho việc sử dụng lâu dài với các loại thuốc hạ huyết áp và những xét nghiệm theo dõi khác kèm theo.
3. Các nguy cơ tim mạch mà bệnh nhân đang có.
4. Sự hiện diện của tổn thương nội tạng do tăng huyết áp hay bệnh tim mạch, bệnh thận và đái tháo đường.
5. Sự hiện diện của các bệnh lý khác như rối loạn mỡ trong máu, hen suyễn, bệnh lý về khớp, u sơ tiền liệt tuyến…các bệnh này có thể thuận lợi hay gây bất lợi khi sử dụng một loại thuốc hạ huyết áp.
6. Tương tác giữa thuốc điều trị tăng huyết áp và các loại thuốc khác mà bệnh nhân đang dùng.
Bạn cần tránh ba sai lầm mà người bệnh tăng huyết áp hay mắc phải khi chữa trị là:
1. Tự mua thuốc hạ huyết áp để uống. Đã có nhiều trường họp phải đưa đến bệnh viện cấp cứu do tự uống thuốc hạ huyết áp.
2. Chỉ chữa bệnh khi huyết áp tăng cao và ngừng thuốc khi huyết về bình thường.
3. Uống lâu dài với 1toa thuốc mà không tái khám để đánh giá lại tình trạng bệnh.
Trong quá trình điều trị khi theo dõi huyết áp tại nhà bạn cần lưu ý:
1. Phải có sổ theo dõi huyết áp, trong sổ náy bạn ghi số đo huyết áp mỗi ngày 1-3lần, triệu chứng bất thường trong ngày, thuốc uống trong ngày. Bạn trình cho bác sĩ điều trị sổ này mỗi lần tái khám.
2. Cách dùng máy đo huyết áp điện tử tại nhà: Đa phần bà con sau khi đưa mua máy đo huyết áp điện tử đều bị khủng hoảng trong thời gian đầu vì bạn thường đo huyết áp rất nhiều lần trong ngày mà mỗi lần đo máy điện tử thường cho một số đo khác nhau nên người bệnh cho là huyết áp của mình không ổn định. Từ đó dẫn đến bất an hay khủng hoảng tâm lý. Cho nên khi theo dõi huyết áp tại nhà bạn chỉ nên đo huyết áp 1-3 lần trong ngày, mỗi lần đo huyết áp nên đo 2lần liên tiếp cách nhau vài phút rồi lấy trung bình 2lần đo. Cần nhớ phải nằm nghĩ khoảng 15 phút trước khi đo. Trước khi đo huyết áp 30 phút không được uống rượu, cà phê hay hút thuốc lá. Không nên đo huyết áp sau khi ăn sau khi mới ngủ dậy.
Như vậy khi tuân thủ đúng các hướng dẫn điều trị và theo dõi của bác sĩ huyết áp của bạn được đưa về thấp hơn 140/90mmHg. Lúc này bạn sẽ thấy mình có cuộc sống thoải mái bình thường không phải lo âu về biến chứng của bệnh tăng huyết áp. Bài nói đến đây là hết, cám ơn sự lắng nghe của quí vị và các bạn.
Về thuốc điều trị tăng huyết áp
Tác giả : TS. DS. NGUYỄN HỮU ÐỨC (ÐH. Y Dược TPHCM)
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, số huyết áp tốt nhất là 120/80mmHg, 120 là số huyết áp trên (tâm thu) và 80 là số dưới (tâm trương). Gọi là tăng huyết áp khi hai số trên - dưới cao hơn 140/90. Một mục tiêu của việc điều trị tăng huyết áp, trong đó có dùng thuốc, là đưa huyết áp về dưới 130/85 đối với người tuổi trung niên và dưới 130/80mmHg đối với người có bệnh đái tháo đường hay bệnh thận, hoặc đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg ở người từ 60 tuổi trở lên.
ÐẶC TÍNH CỦA MỘT SỐ LOẠI THUỐC TRỊ CAO HUYẾT ÁP
Theo phân loại bệnh tăng huyết áp mới (the JNC 7 report) ta cần lưu ý đến giai đoạn tiền tăng huyết áp (prehypertension), thể hiện huyết áp trên 120-139 và huyết áp dưới 80-90, giai đoạn này cần phải thay đổi lối sống (ăn nhạt, vận động thể lực).
Có nhiều thuốc trị cao huyết áp đang được sử dụng ở nước ta, chia thành nhiều nhóm với một số đặc tính như sau:
1. Nhóm thuốc lợi tiểu: Gồm có Hydroclorothiazid, Indapamid, Furosemid, Spironolacton, Amilorid, Triamteren... Cơ chế của thuốc là làm giảm sự ứ nước trong cơ thể, tức làm giảm sức cản của mạch ngoại vi, dẫn đến làm hạ huyết áp. Dùng đơn độc khi bị huyết áp nhẹ, có thể phối hợp với thuốc khác khi cao huyết áp nặng thêm. Cần lựa chọn loại phù hợp do có loại làm thải nhiều kali, loại giữ kali, tăng acid uric trong máu, tăng cholesterol máu.
2. Nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương: Gồm có Reserpin, Methyldopa, Clonidin... Cơ chế của thuốc là hoạt hóa một số tế bào thần kinh gây hạ huyết áp. Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng thuốc đột ngột sẽ làm tăng vọt huyết áp.
3. Nhóm thuốc chẹn alpha: Gồm có Prazosin, Alfuzosin, Terazosin, Phentolamin... Cơ chế của thuốc là ức chế giải phóng noradrenalin tại đầu dây thần kinh (là chất sinh học làm tăng huyết áp), do đó làm hạ huyết áp. Có tác dụng phụ gây hạ huyết áp khi đứng lên (hạ huyết áp tư thế đứng), đặc biệt khi dùng liều đầu tiên.
4. Nhóm thuốc chẹn beta: Gồm có Propanolol, Pindolol, Nadolol, Timolol, Metoprolol, Atenolol, Labetolol, Acebutolol... Cơ chế của thuốc là ức chế thụ thể beta - giao cảm ở tim, mạch ngoại vi, do đó làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Thuốc dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt lưng, ngực hoặc nhức nửa đầu. Chống chỉ định đối với người có kèm hen suyễn, suy tim, nhịp tim chậm.
5. Nhóm thuốc đối kháng calci: Gồm có Nifedipin, Nicardipin, Amlodipin, Felodipin, Isradipin, Verapamil, Diltiazem... Cơ chế của thuốc là chặn dòng ion calci không cho đi vào tế bào cơ trơn của các mạch máu, vì vậy gây giãn mạch và từ đó làm hạ huyết áp. Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực, hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ trong cơ thể.
6. Nhóm thuốc ức chế men chuyển: Gồm có Captopril, Enalapril, Benazepril, Lisinopril, Perindopril, Quinepril, Tradola-pril... Cơ chế của thuốc là ức chế một enzym có tên là men chuyển angiotensin (angiotensin converting enzym, viết tắt ACE). Nhờ men chuyển angiotensin xúc tác mà chất sinh học angiotensin I biến thành angiotensin II và chính chất sau này gây co thắt mạch làm tăng huyết áp. Nếu men chuyển ACE bị thuốc ức chế (làm cho không hoạt động) sẽ không sinh ra angiotensin II, gây ra hiện tượng giãn mạch và làm hạ huyết áp. Thuốc hữu hiệu trong 60% trường hợp khi dùng đơn độc (tức không kết hợp với thuốc khác). Là thuốc được chọn khi bệnh nhân bị kèm hen suyễn (chống chỉ định với chẹn beta), đái tháo đường (lợi tiểu, chẹn beta). Tác dụng phụ: làm tăng kali huyết và gây ho khan.
7. Nhóm thuốc mới ức chế thụ thể angiotensin: Những thuốc dùng trị huyết áp thuộc các nhóm kể trên vẫn còn nhiều nhược điểm về mặt hiệu quả cũng như các tác dụng phụ, vì vậy việc nghiên cứu tìm những thuốc mới vẫn tiếp tục được đặt ra. Ðặc biệt, nhóm thuốc ức chế men chuyển xuất hiện từ đầu những năm 1980 (được công nhận là thuốc không thể thiếu trong điều trị cao huyết áp) đã thúc đẩy các nhà khoa học tìm ra những thuốc mới tác động đến men chuyển ACE. Các nghiên cứu gần đây nhận thấy nếu tác dụng chính vào men chuyển ACE, làm cho men này bất hoạt thì thuốc sẽ gây nhiều tác động phụ như ho khan (là tác dụng phụ khiến nhiều người bệnh bỏ thuốc không tiếp tục dùng). Nguyên do là vì men chuyển ACE không chỉ xúc tác biến angiotensin I thành angiotensin II gây tăng huyết áp mà còn có vai trò trong sự phân hủy một chất sinh học khác có tên là bradykinin. Nếu ức chế men ACE, bradykinin không được phân hủy ở mức cần thiết, sẽ thừa và gây nhiều tác dụng, trong đó có ho khan. Thay vì ức chế men ACE, hướng nghiên cứu mới là tìm ra các thuốc có tác dụng ngăn không cho angiotensin II gắn vào thụ thể của nó (angiotensin II receptors, type 1) nằm ở mạch máu, tim, thận, do đó sẽ làm hạ huyết áp. Vì thế, hiện nay có nhóm thuốc mới trị cao huyết áp là nhóm thuốc ức chế thụ thể angiotensin II (Angiotensin II receptors antagonists). Thuốc đầu tiên được dùng là Losartan, sau đó là Irbesartan, Candesardan, Valsartan... Nhóm thuốc mới này có tác dụng hạ huyết áp, đưa huyết áp về trị số bình thường, tương đương với các thuốc nhóm đối kháng calci, chẹn beta, ức chế men chuyển. Ðặc biệt, tác dụng hạ áp của chúng tốt hơn nếu phối hợp với thuốc lợi tiểu Thiazid. Lợi điểm của nhóm thuốc này là do không trực tiếp ức chế men chuyển nên gần như không gây ho khan như nhóm ức chế men chuyển, hoặc không gây phù như thuốc đối kháng calci. Tác dụng phụ có thể gặp là chóng mặt, hoặc rất hiếm là gây tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không dùng cho phụ nữ có thai hoặc người bị dị ứng với thuốc.
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CẦN TUÂN THỦ KHI DÙNG THUỐC ÐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP
Các thuốc thuộc những nhóm kể trên đều có ở nước ta. Ðể điều trị bằng thuốc, người bệnh cần đi khám và được bác sĩ điều trị chỉ định, hướng dẫn sử dụng thuốc. Bởi vì chỉ có bác sĩ mới nắm vững tính năng của thuốc, khám bệnh trực tiếp và sẽ lựa chọn loại thuốc thích hợp, chỉ dẫn các nguyên tắc dùng thuốc. Sự lựa chọn thuốc trị cao huyết áp sẽ tùy thuộc vào yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, có sự tổn thương các cơ quan (như suy thận, suy tim, dây thất trái...), có kèm bệnh đái tháo đường... Ðặc biệt, các bác sĩ sẽ giúp bệnh nhân tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Trước hết, dùng thuốc với liều thấp ban đầu và tăng liều dần dần với chỉ một loại thuốc. Khi mới bị tăng huyết áp, khuyến cáo mới khuyên nên dùng thuốc đầu tiên là nhóm lợi tiểu, đặc biệt là nhóm Thiazid.
- Nếu không hiệu quả mới kết hợp hai nhóm thuốc. Theo khuyến cáo mới (JNC 7), tuy mới bị bệnh nhưng khi huyết áp của người bệnh cao hơn mức cần phải đạt khá nhiều (huyết áp trên cao hơn 20mmHg, huyết áp dưới cao hơn 10mmHg), thì người bệnh cần được điều trị ngay với 2 thuốc phối hợp, thông thường có thuốc lợi tiểu.
- Nếu thuốc được chọn đầu tiên có hiệu quả kém và gây nhiều tác dụng phụ thì nên đổi nhóm thuốc khác, chứ không cần tăng liều hoặc kết hợp thêm thuốc thứ hai.
- Nên dùng loại thuốc cho tác dụng kéo dài, loại uống 1 lần trong ngày.
Xin lưu ý, các thuốc thuộc nhóm ức chế thụ thể angiotensin II hiện nay đã bắt đầu lưu hành ở nước ta, tuy chưa được dùng rộng rãi. Một số bệnh nhân được người thân từ nước ngoài gởi về thuốc loại này cứ tự tiện sử dụng mà không hỏi ý kiến bác sĩ đang trực tiếp điều trị. Dùng như thế là không đúng, vì theo trình bày ở phần trên, thuốc trị cao huyết áp có nhiều loại và vấn đề sử dụng khá phức tạp. Chỉ có bác sĩ điều trị mới là người có thẩm quyền chỉ định và hướng dẫn dùng thuốc thế nào cho an toàn và hiệu quả. Ðặc biệt, bác sĩ có thể quyết định có nên thay thuốc điều trị lâu nay bằng một thuốc mới hay không, chứ không nhất thiết luôn luôn phải dùng thuốc mới.
Bệnh cao huyết áp và cách điều trị mới trong đông y
Cao huyết áp là bệnh lý thường gặp trong cộng đồng và gia tăng theo tuổi, khoảng 8-12% dân chúng bị bệnh này. Khi trị số huyết áp tâm thu >140mmHg và huyết áp tâm trương >90mmHg được xem là cao huyết áp. Đối với người già, dạng cao huyết áp phổ biến là cao huyết áp tâm thu đơn thuần, tức là chỉ số huyết áp tâm thu >160mmHg, nhưng huyết áp tâm trương lại không cao <90mmHg.
Cao huyết áp được coi là “kẻ giết người thầm lặng” do phần lớn bệnh không có triệu chứng hoặc triệu chứng rất nghèo nàn, đôi khi chỉ thấy đau đầu chóng mặt thoáng qua, mất ngủ, người bệnh không để ý đến, chỉ được phát hiện khi đo huyết áp hoặc có tai biến mạch máu não, đau tim, suy thận, lúc đó là đã muộn. Theo Tổ chức y tế thế giới, trong 8 người chết thì có 1 người chết vì cao huyết áp.Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng, có thể giảm được 35-40% biến chứng tai biến mạch máu não, 20-25% nhồi máu cơ tim, 50% suy tim. Ngoài số người chết ngay vì biến chứng đầu tiên, số người bị liệt, tàn tật, không làm việc được là một gánh nặng cho xã hội.
Hướng điều trị mới theo y học cổ truyền.
Y học cổ truyền cho rằng cao huyết áp là một chứng bệnh thuộc phạm vi các chứng huyễn vựng (chóng mặt hoa mắt), đầu thống (đau đầu), thất miên (mất ngủ)…Cao huyết áp là bệnh thuộc các tạng can, thận, tâm, tỳ, bị mất điều hoà gây nên, ngoài ra còn có yếu tố đàm thấp hay gặp ở người béo bệu và cholestrol máu cao.
Theo Đông y, cao huyết áp có nhiều thể khác nhau như: Thể âm hư dương xung thường gặp ở cao huyết áp người trẻ, phụ nữ tiền mãn kinh. Thể tâm tỳ hư hay gặp ở người gìà có kèm theo các bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mạn. Thể đàm thấp hay gặp ở người béo có cholestrol máu cao. Thường gặp nhất là thể can thận hư ở người già, xơ cứng động mạch với các triệu chứng: Nhức đầu, hoa mắt chóng mặt, ù tai, hoảng hốt, ngủ ít hay nằm mơ, lưng gối yếu, mặt đỏ, chất lưỡi đỏ, mạch huyền tế sác.
Thuốc nam có nhiều vị có tác dụng hạ huyết áp như cúc hoa, hoè hoa, câu đằng, chuối tiêu…được người dân thường xuyên sử dụng. Việc sử dụng các vị thuốc hay bài thuốc từ dược liệu có hiệu quả cao, an toàn và ít tác dụng phụ là xu hướng mới của thời đại.
Hiện nay các thuốc trị cao huyết áp phổ biến là thuốc tân dược, có tác dụng hạ áp tức thời,như thuốc giãn mạch, thuốc lợi tiểu hay ức chế men chuyển ... Bệnh nhân phải sử dụng thuốc hàng ngày và suốt đời để kiểm soát huyết áp, tuy nhiên thuốc tân dược có nhiều tác dụng phụ bất lợi. Xu hướng mới hiện nay là sử dụng các sản phẩm từ đông y để điều hoà phục hồi lại chức năng các tạng phủ, tức là trị bệnh tận gốc theo y lý của đông y, kết hợp với chế độ thực dưỡng và vận động hợp lý, từ đó điều chỉnh huyết áp về mức an toàn trong thời gian dài, không phải lệ thuộc thuốc suốt đòi.
Sản phẩm HẠ ÁP Ích Nhân được bào chế từ bài thuốc đông y nổi tiếng “Giáng áp hợp tễ” kết hợp với bài thuốc đông y gia truyền của nhà thuốc gia truyền Nam Lạng (Nhà thuốc gia truyền trên 200 năm với 7 đời làm nghề thuốc tại thôn Nam Lạng, xã Trực tuấn, huyện Trực Ninh, Nam Định) . HẠ ÁP Ích Nhân điều hoà và phục hồi chức năng các tạng can, thận, tâm, có tác dụng hạ huyết áp, ổn định huyết áp lâu dài cho bệnh nhân cao huyết áp theo lý luận của Y học cổ truyền. Bệnh nhân có thể dùng HẠ ÁP Ích Nhân ngày 2 lần, mỗi lần 3-4 viên theo đợt 1-2 tháng, khi huyết áp ổn định có thể giảm liều hoặc dừng hẳn, tiếp tục áp dụng các biện pháp điều trị không dùng thuốc, như chế độ tập luyện và ăn uống phù hợp.
Tăng huyết áp sẽ nặng hơn nếu gặp các yếu tố thuận lợi. cần kiềm chế bản thân tránh giận dữ, lo lắng, buồn rầu quá mức để tránh bệnh nặng thêm. Sinh hoạt lao động thường ngày cần có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn hợp lý, tập luyện thể dục, các bài dưỡng sinh nhẹ nhàng, phù hợp với sức khoẻ của mỗi người, giữ tinh thần thoải mái trước lúc đi ngủ, ăn uống điều độ, ăn nhạt, hạn chế bia rượu, thuốc lá. Cần kiêng những thức ăn nhiều đạm, nhiều muối, ăn nhiều thực phẩm chứa vitamin như rau xanh, trái cây. Giảm cân và giữ trọng lượng cơ thể vừa phải.
Bác sĩ đông y Dương Thu Hà
Nguyên Bác sỹ Bệnh viện YHCT Hà Nội
Đề phòng tai biến khó lường do tăng huyết áp
(Dân trí) - TS Trần Quốc Bình, Giám đốc bệnh viện Y học Cổ truyền TƯ, khẳng định: Tăng huyết áp (THA) là một bệnh lý nguy hiểm, khó lường nếu người bệnh không chú ý đề phòng để ngăn chặn nguy cơ từ sớm.
Đi khám khi chưa có biểu hiện bệnh
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới hiện có đến hơn 1,5 tỷ người mắc phải căn bệnh Tăng huyết áp (THA).
Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê điều tra THA tại miền Bắc, sau 10 năm (1982-1992), tỉ lệ THA đã tăng hơn 10 lần (từ 1% lên tới 11,79% dân số) và 10 năm sau đó (2002), tỉ lệ này đã tăng lên thành 16,3%.
Mới đây nhất, trong dự án phòng chống tăng huyết áp quốc gia năm 2009 - 2010, kết quả khảo sát của Bộ Y tế cho thấy hơn 1/4 người mắc bệnh tăng huyết áp là từ 25 tuổi trở lên.
Trao đổi với PV Dân trí, PGS.TS Nguyễn Nhược Kim, Phó chủ tịch Hội Đông y Việt Nam, cho biết: “Nguyên nhân chính thường gặp trong bệnh lý THA là do làm việc căng thẳng dẫn đến stress (nhân viên các văn phòng), ít vận động, ăn nhiều mỡ động vật, ăn mặn, uống nhiều bia rượu và thuốc lá.
Ngoài ra, “Hạn chế của người dân nước ta là chưa thấy đau yếu, chưa thấy biểu hiện xấu về sức khỏe, nhất là với bệnh lý THA, thì chưa chịu đi khám. Ở các nước Âu Mỹ, bệnh lý THA được kiểm soát rất tốt vì chính bản thân những người có nguy cơ cao đã đăng ký lịch khám định kỳ để theo dõi, phát hiện để tìm cách điều trị nên giảm thiểu được những nguy hiểm bất ngờ”, PGS.TS Kim cho biết.
Hội thảo khoa học nhân ngày Thế giới phòng chống bệnh Tăng huyết áp. (Ảnh: Q.Đ)
Không được chủ quan sau điều trị
PGS.TS Kim cũng cho biết đã từng gặp những trường hợp bệnh nhân có bệnh lý THA tử vong dù đã đi bệnh viện thăm khám và điều trị. Nguyên nhân là sau thời gian đầu tuân thủ phác đồ bác sỹ, tưởng rằng mình đã khỏi nên lại sa đà vào việc ăn uống “bừa bãi”, uống cả rượu mạnh nên chỉ sau một lần ngã tại cuộc vui, bệnh nhân đã tử vong bất ngờ vì tai biến.
PGS.TS Nguyễn Nhược Kim (cầm bó hoa): "Với bệnh lý Tăng huyết áp cần phải được bệnh nhân nắm bắt kiến thức cơ bản trong việc phát hiện và điều trị..." (Ảnh: Q.Đ)
Một trong những dấu hiệu của thừa cân, béo phì là THA. Vì thế, để đề phòng sự nguy hiểm cần phải đến các cơ sở y tế cấp phường xã để kiểm tra huyết áp. Nếu ở trong giới hạn tối đa là 140ml thủy ngân và tối thiểu là 90ml thủy ngân thì là những người đã ở trong giai đoạn tiền tăng THA.
Những người này cần phải thực hiện ngay các phương pháp loại trừ những yếu tố nguy cơ gây THA như tuân thủ nguyên tắc về ăn uống, tập thể dục để giảm cân. Với những người ít vận động thì phải cố gắng thay đổi lối sống bằng việc tăng cường vận động hoặc tham gia vào các hoạt động thể thao, giải trí khác. Ngoài ra, bệnh lý THA cũng là loại bệnh lý có tính chất gia đình bởi theo PGS. TS Kim, bố mẹ mà bị THA thì con cái cũng dễ bị ảnh hưởng.
Về phương pháp điều trị bệnh lý THA, TS Trần Quốc Bình cho rằng, để có thể điều trị thành công bệnh lý THA hiện nay trên thế giới vẫn sử dụng cả hai phương pháp cổ truyền và hiện đại. Trong đó, các vị thuốc có tác dụng hỗ trợ cho việc điều trị bệnh lý THA có nhiều ở đất nước ta như: Hoa Hòe, Câu Đàn, Hạ Khô Thảo, Giun đất (giun quế)…
Tại hội thảo nhân ngày Thế giới phòng chống tăng huyết áp (17/05) tổ chức tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, các chuyên gia nhấn mạnh tác dụng hạ huyết áp phòng ngừa tai biến của vị thuốc Địa long (bào chế từ Giun quế). Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy Giun quế giúp hạ huyết áp, làm tan cục máu đông do đó dự phòng tai biến mạch máu não do tăng huyết áp. Địa long (Giun quế) được kết hợp với các thảo dược khác trong viên nang Hạ Áp Ích Nhân. Đây là viên uống thảo dược đầu tiên cho người tăng huyết áp ứng dựng những tác dụng quý của Giun quế. Năm 2010, sản phẩm Hạ Áp Ích Nhân cùng nhà sản xuất Nam Dược vinh dự đạt Giải thưởng chất lượng quốc gia.
Điện thoại tư vấn: 04.22133856
Website: www.ichnhan.vn
Quốc Đô
THÔNG TIN TIM MẠCH HỌC MEDIC
________________________________________
HƯỚNG DẪN DÀNH CHO NGƯỜI CAO HUYẾT ÁP
Cao huyết áp còn gọi là tăng huyết áp và khái niệm thường dùng trong dân chúng là bệnh tăng xông (tension)
Cao huyết áp là bệnh lý thuờng gặp trong cộng đồng và gia tăng theo tuổi. Chiếm 8-12% dân số.Một số yếu tố nguy cơ làm gia tăng nguy cơ cao huyết áp như tiều đường, thuốc lá, tăng lipid máu, di truyền.Cao huyết áp là bệnh lý gây tử vong và di chứng thần kinh nặng nề như liệt nữa người, hôn mê với đời sống thực vật, đồng thời có thể thúc đẩy suy tim ,thiếu máu cơ tim làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống ( không cảm thấy khoẻ khoắn, mất khả năng lao động) và gia tăng khả năng tử vong.Do đó điều trị huyết áp cao là vấn đề cần lưu ý trong cộng đồng vì những hậu quả to lớn của nó.
Ngày nay với sự tiến bộ về kỷ thuật chẩn đoán (máy đo huyết áp phổ biến rộng rãi) và càng có nhiều loại thuốc điều trị ít tác hại, việc điều trị đã mang đến cho bệnh nhân sự cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm đáng kể tử vong và các di chứng(liệt nữa người, suy tim) do cao huyết áp gây nên.
Người bệnh cao huyết áp cũng cần quan niệm rằng cần phải chấp nhận việc điều trị tốn kém lâu dài để đổi lấy một cuộc sống an toàn. Cao huyết áp thường không triệu chứng do đó nhiều người chỉ nhận ra bản thân họ bị cao huyết áp khi họ bị tai biến mạch máu não (còn gọi là đột quî). Không thể căn cứ vào triệu chứng nhức đầu, chóng mặt để uống thuốc hạ áp bởi vì nhức đầu, chóng mặt không phải thường xuyên xuất hiện khi huyết áp tăng cao đột ngột và các triệu chứng này có thể gặp ở bệnh lý khác( ví dụ nhức đầu do căng thẳng,viêm xoang, và chóng mặt có thể do tụt huyết áp...).Tốt nhất nên thường xuyên kiểm tra huyết áp định kỳ với những người chưa cao huyết áp và khi nghi ngờ cao huyết áp cần đo huyết áp nhiều lần .Nếu huyết áp vẫn cao thì nên bắt đầu biện pháp điều chỉnh cách sống(tập thể dục, cai thuốc lá, điều chỉnh chế độ ăn) và xem xét điều trị thuốc.
Huyết áp không phải là con số hằng định
Trị số huyết áp thay đổi rất nhiều khi có yếu tố tác động như tâm lý(lo âu, sợ hãi, mừng vui...) vận động(đi lại , chạy nhảy) hoặc môi trường (nóng lạnh), chất kích thích(thuốc lá, càphê, rượu bia) và bệnh lý (nóng sốt, đau đớn).Trong những trường hợp trên, huyết áp thường tăng cao hơn bình thường.Ví dụ huyết áp của bạn lúc nghỉ thường 130/80mmHg khi bạn lên cầu thang lầu 3,nếu bạn đo huyết áp ngay thì trị số huyết áp của bạn có thể 150/80-180/90mmHg.Trong những trường hợp này không thể cho rằng bạn bị cao huyết áp.Do đó tốt nhất bạn phải nghỉ ngơi ổn định trước khi đo huyết áp nếu bạn muốn có trị số huyết áp trung thực và phải đo nhiều lần sau đó tính trung bình sau 3 lần đo.Bạn cũng đừng thắc mắc nhiều nếu huyết áp trước đó khác với trị số bây giờ.
Nhịp sinh học huyết áp của bạn thường dao động rõ rệt, huyết áp thường cao dần từ lúc bạn thức giấc và gia tăng tùy theo bạn vận động hoặc căng thẳng hay không. Vào chiều tối khi bạn nghỉ ngơi thư giãn huyết áp xuống nhẹ và sẽ xuống thấp nhất khi bạn ngủ say vào ban đêm cho đến gần sáng.Các nghiên cứu ghi nhận rằng ở người cao huyết áp mà huyết áp không hạ vào ban đêm hoặc hạ quá mức hoặc tăng vọt vào buổi sáng đều là yếu tố bất lợi vì dễ bị đột quî do cao huyết áp.
Khi nào gọi là cao huyết áp ?
Người ta thường dùng khái niệm huyết áp tâm thu (hoặc huyết áp tối đa) cho trị số huyết áp trên và huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) cho trị số huyết áp dưới.Ví dụ khi bác sĩ của bạn ghi huyết áp của bạn : 180/95mmHg tức là huyết áp tâm thu (hoặc tối đa của bạn là 180mmHg và huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) là 95mmHg.
Khi trị số huyết áp tâm thu > 140mmHg và huyết áp tâm trương >90 mmHg được xem là cao huyết áp.Đối với người già, dạng cao huyết áp phổ biến là cao huyết áp tâm thu đơn thuần tức là chỉ số huyết áp tâm thu >160mmHg nhưng huyết áp tâm trương không cao(<90mmHg).
Ở trẻ em trị số huyết áp có thấp hơn quy ước của người lớn.
Cách đo huyết áp:
Để có trị số huyết áp đúng, việc đo huyết áp là bước chẩn đoán quan trọng nhất vì tránh được việc điều trị quá mức hoặc không đầy đủ.Cần đo nhiều lần và nhiều vị trí khác nhau (2 tay, 2 chân) để so sánh đôi khi phát hiện bệnh lý mạch máu ví dụ như trong teo hẹp eo động mạch chủ huyết áp chi trên cao hơn chi dưới.
Đo huyết áp cần thực hiện trong phòng yên tỉnh, trạng thái tinh thần thoải mái.Tư thế đo huyết áp thông thường là tư thế nằm và ngồi để làm sao băng quấn cánh tay ngang mức với tim.Băng quấn cánh tay(cuff) phải phù hợp kích thứơc cánh tay. Trẻ em cần có băng quấn cánh tay kích thước nhỏ hơn.
Hướng dẫn đo huyết áp:
Nên sử dụng máy đo huyết áp nào?
Máy đo huyết áp thủy ngân được xem là tiêu chuẩn. Ngày nay người ta giảm dần việc sử dụng máy đo huyết áp thủy ngân vì độc tính với môi trường.Các loại máy dạng đồng hồ thường phổ biến sử dụng trong giới thầy thuốc,trong khi đó các máy đo huyết áp điện tử thường sử dụng rộng rãi trong dân chúng vì dễ đo.Theo Uỷ Ban phối hợp quốc gia về cao huyết áp Hoa Kỳ(JNC)ø và Tổ chức Y tế Thế Giới(WHO), đối với máy đo huyết áp điện tử, chỉ nên sử dụng loại băng quấn cánh tay,không nên sử dụng cổ tay và ngón tay vì không chính xác.
Bạn có thể chọn máy đo huyết áp đồng hồ hoặc có thể máy đo điện tử để tự đo huyết áp ở nhà. Máy đo huyết áp đồng hồ thường kèm theo ống nghe thường giá rẽ hơn máy đo huyết áp điện tử nhưng đòi hỏi bạn phải được nhân viên y tế huấn luyện cách đo . Đối với máy đo huyết áp điện tử ưu điểm là dễ sử dụng , nhưng nhược điểm là các máy tại thị trường Việt nam chỉ có số ít Hãng như Omron là được kiểm định theo tiêu chuẩn Anh Mỹ.Khi chọn máy đo huyết áp điện tử các bạn nên chọn các loại máy đo huyết áp đã được các tổ chức uy tín kiểm định chất lượng. Hiện nay 2 tổ chức có uy tín trong kiểm tra chất lượng máy đo huyết áp là Hiệp hội cao huyết áp Anh quốc (British Hypertension Society) và Hiệp hội Phát triển Dụng cụ y tế Hoa kỳ (Association for Advancement of Medical Instrumentation).
Sau đây là một số máy đo huyết áp điện tử được khuyên dùng:
Loại tự động :
AND UA-767,và Sunbeam 7652
Omron HEM-711, Omron HEX -712
Omron HEM-705CP, Omron HEM-735C, Omron HEM-713C, Omron HEM -737 Intellisense,
Loại bán tự động(bơm tay) giá thành rẻ hơn:
AND UA -702, Omron HEM- 412C, Lumiscope 1065, Sunmark 144.
Một số máy có thể chấp nhận sử dụng:
Omron HEM 703CP, Omron M4, Omron MX2, Omron HEM-722C
Một số máy không chấp nhận sử dụng:
Philips HP5332, Nissei DS-175
Omron HEM 706, Omron HEM 403C
Bên cạnh đó một số máy ra đời sau này được cải tiến về chất lượng tốt hơn đã được bày bán trên thị trường nhưng chưa được kiểm định bởi 2 tổ chức trên. Do đó bảng trên đây chỉ có giá trị tham khảo.
Các xét nghiệm cần làm khi bạn bị cao huyết áp:
Xét nghiệm cơ bản đối với tất cả các bệnh nhân:
Tổng phân tích nước tiểu
Công thức máu toàn phần
Sinh hoá máu (kali, natri. creatinin, glucose, cholesterol toàn phần, HDL cholesterol)
ECG
Xét nghiệm tối ưu:
Độ thanh thải creatinine,vi đạm niệu, protein nước tiểu 24 giờ, calcium, axit uric , triglyceride lúc đói,LDL cholesterol, glycosolated hemoglobin, TSH,
siêu âm tim.
Xét nghiệm tìm nguyên nhân:
Huyết áp cao xãy ra >90% không tìm thấy nguyên nhân hay còn gọi là vô căn. Chỉ một số ít bệnh nhân cao huyết áp có nguyên nhân gây ra.Cao huyết áp có nguyên nhân cần nghi ngờ ở những bệnh nhân trẻ tuổi hoặc quá lớn tuổi, kém đáp ứng điều trị hoặc khởi phát cao huyết áp đột ngột. Do đó bác sĩ của bạn sẽ cho thêm những xét nghiệm tầm soát tốn kém hơn để tìm nguyên nhân của cao huyết áp và như vậy mới có thể giải quyết tận gốc nguyên nhân cao huyết áp.
Nếu huyết áp dao động nhiều có những cơn kịch phát kèm nhịp tim nhanh,vả mồ hôi, nhức đầu nhiều bác sĩ của bạn sẽ nghi ngờ khối u ở thượng thận tủy sẽ cho thêm các xét nghiệm: siêu âm thận tìm khối u vùng thượng thận và xét nghiệm catecholamine nước tiểu 24 giờ và chất chuyển hoá vanillyl madelic acid (VMA), chụp đồng vị phóng xạ MIBG
Nếu cao huyết áp kèm chênh lệch huyết áp chi trên và chi dưới hoặc mạch đùi khó bắt cần xem xét hẹp eo động mạch chủ .Có thể sử dụng siêu âm Doppler mạch máu ,chụp mạch máu chọn lọc DSA. chụp mạch bằng cộng hưởng từ(Magnetic Resonance Angiography).Những kỷ thuật này có thể sử dụng khi nghi ngờ hẹp Động mạch thận.
Các xét nghiệm Renin, Aldosterone và Cortisone cũng giúp ích nhiều trong xác định cao huyết áp do bệnh lý nội tiết tố như hội chứng Conn và Cushing...
Tại sao phải điều trị huyết áp cao?
Huyết áp cao thường gây tai biến nghiêm trọng như tử vong và hôn mê do tai biến mạch máu não, di chứng liệt nữa người, suy tim, thiếu máu cơ tim, suy thận, phinh bóc tách động mạch chủ... Do đó mục đích chính của điều trị cao huyết áp là để phòng ngừa những biến chứng này.
Thông qua trị số huyết áp được hạ bằng thuốc hạ áp chúng ta có thể nhận biết huyết áp có thể kiểm soát tốt hay không. Tốt nhất nên đưa trị số huyết áp về < 140/85mmHg;đối với người gia,ø trị số huyết áp ban đầu có thể đưa về <160/90mmHg sau đó điều chỉnh tùy theo sự chịu đựng của bệnh nhân.
Điều trị huyết áp cao là điều trị suốt đời,do đó khi huyết áp đã trở về gần bình thường cũng không nên ngưng thuốc hạ áp mà phải điều trị tiếp tục vì huyết áp gia tăng trở lại khi ngưng thuốc.Cần tham vấn thường xuyên bác sĩ của bạn khi huyết áp quá cao hoặc quá thấp trong quá trình điều trị.
Điều trị thuốc hạ áp có thể phối hợp các nhóm thuốc khác nhau để tăng hiệu quả và giảm tác dụng phụ (do sử dụng liều thấp).Cần lưu ý đến tác dụng phụ của thuốc khi điều trị đặc biệt là tụt huyết áp ở người già. Ơû người già, bác sĩ điều trị thường cho thuốc hạ áp với liều khởi đầu chỉ bằng nữa liều người trẻ vì người già dễ tụt huyết áp do thuốc hơn.
Ngoàøi việc điều trị huyết áp, cần lưu ý điều trị các yếu tố nguy cơ khác kèm theo như tiểu đường , tăng lipid máu...
Bạn sẽ được bác sĩ điều trị gì khi bạn bị cao huyết áp?
Thông thường khi đo trị số huyết áp của bạn cao >140/90nnHg với nhiều lần đo trong nhiều ngày bạn có thể được xem là cao huyết áp.Nếu huyết áp của bạn không cao lắm tức khoảng 140/90-150/95nnHg và tình trạng chung tốt và không mắc các bệnh làm xấu thêm tình trạng tim mạch.Bạn có thể không dùng thuốc mà cần phải điều chỉnh cách sống. Nếu huyết áp cao hơn hoặc không cải thiện thì có thể xem xét điều trị thuốc ngay sau khi cân nhắc cẩn thận.
Việc điều chỉnh các sống bao gồm:
Điều chỉnh chế độ ăn uống như giảm ăn mặn (<6g natri chlorua), giảm mỡ,giảm đường (nếu có tiểu đường), không uống quá nhiều bia rượu mặc dù uống với số lượng hạn chế cũng giúp có lợi cho sức khoẻ của bạn (chừng 15ml rượu ethanol, 360ml bia/ngày)
Tập thể dục đều đặn là cách thức giảm cân, hoạt động thể lực aerobic hàng ngày 30-45 phút hầu hết các ngày trong tuần.
Ngưng hút thuốc lá.
Đời sống tinh thần thoải mái nghỉ ngơi giải trí hợp lý
Điều trị thuốc hạ áp:
Bác sĩ của bạn sẽ điều trị bệnh cao huyết áp bằng thuốc cho bạn khi trị số huyết áp khá cao, huyết áp cao có ảnh hưởng tim,mắt ,thận , não.hay chưa cũng như kèm theo các bệnh liên quan khác (tiểu đường, tăng mỡ trong máu.)
Một số thuốc hạ áp thường dùng:
Nhóm thuốc lợi tiểu:
Furosemid(Lasix, Lasilix)
Hydrochlorothiazid(Hypothiazid)
Indapamid(Natrilix SR)
Nhóm thuốc ức chế can xi:
Nhóm Dihydropyridine : Nifedipine(Adalat,Procardia) chỉ nên sử dụng chế phẩm tác dụng kéo dài không nên sử dụng các chế phẩm tác dụng ngắn đặc biệt là dạng ngậm dưới lưởûi vì không an toàn (gia tăng cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim và tử vong).
Felodipine(Plendil), Amlodipine(Amlor.Amdepin, Amlopress)
Nhóm Không Dihydropyridine :Tildiem(Tildiazem), Verapamil(Isoptin)
Nhóm thuốc ức chế men chuyển:
Captopril (Lopril), Enalapril (Renitec), Lisinopril (Zestril), Peridopril (Coversyl)
Nhóm thuốc ức chế bêta giao cảm:
Propranolol (Avlocardyl, Inderal), Atenolol (Tenormin), Metoprolol (Lopresor),Acebutolol (Sectral), Pindolol (Visken)
Việc lựa chọn thuốc hạ áp nào là phụ thuộc vào tình trạng huyết áp và tình trạng bệnh lý saün có( tuổi, bệnh tim, bệnh phổi,bệnh thận.).Ví dụ người có bệnh phổi như hen suyễn hoặc nhịp tim chậm(<60 lần/phút) thì không nên sử dụng thuốc ức chế bêta.Nhưng thuốc ức chế bêta có lợi hơn ở những bệnh nhân huyết áp cao kèm thiếu máu cơ tim mà nhịp tim nhanh. Người có suy tim thì thuốc ức chế men chuyển có lợi hơn. Thuốc ức chế can-xi Dihydropyridine thường được chỉ định rộng rãi vì ít tác dụng phụ, nhưng tốt nhất sử dụng dạng tác dụng kéo dài.Nhóm không Dihydropyridine (verapamil, diltiazem) có tác dụng tốt cao huyết áp kèm bệnh mạch vành , nhưng làm chậm dẫn truyền và suy giảm sức bóp của tim do đó cần thận trọng với blốc A-V, và suy tim.
Theo dõi hiệu quả điều trị:
Các cách thức theo dõi điều trị:
Đo huyết áp tại phòng khám:
Đây là cách thức thường áp dụng cho bệnh nhân. Nhược điểm là trị số huyết áp tại phòng khám thường cao hơn trị số thực sự 20-30mmHg, dù kỷ thuật đo của bác sĩ là đúng. Hiện tượng này còn gọi là hiệu ứng áo choàng trắng.Sự gia tăng huyết áp này là do tâm lý bệnh nhân khi đến môi trường y tế.Điều này làm bác sĩ thay đổi thuốc hoăïc tăng liều sẽ gây bất lợi là tụt huyết áp do điều trị quá mức.
Đo huyết áp tại nhà: Thật là lý tưởng nếu bệnh nhân tự đo huyết áp ở nhà nhiều lần trong ngày để kết hợp với trị số đo tại phòng khám. Với các máy đo huyết áp điện tử hiện nay( đặc biệt những máy có kiểm định chất lượng tốt) sẽ hổ trợ lớn cho bác sĩ và bệnh nhân theo dõi điều trị.Một khó khăn thường gặp là làm sao để bệnh nhân đo tại nhà đúng kỷ thuật và không phải tất cả bệnh nhân đều có maý đo huyết áp tại nhà dù giá máy hiện nay tương đối chấp nhận.
Đo huyết áp với kỷ thuật theo dõi huyết áp liên tục 24 giờ (ABPM) trong điều kiện ngoại trú:
Ngoài ra, khi bạn không có máy đo huyết áp tại nhà, bác sĩ của bạn có thể đề nghị bạn mang 1 máy đo huyết áp theo dõi liên tục 24 giờ (ambulatory blood pressure monitoring-ABPM), là máy đo huyết áp trong điều kiện ngoại trú. Đây là loại máy hoàn toàn tự động, ban ngày máy có thể đo mỗi 15 phút 1 lần và ban đêm mỗi 30 phút -1 giờ 1 lần đo.Sau đó 24 giờ sẽ nạp vào máy vi tính và bác sĩ chuyên trách sẽ in ra cho bạn 1 bảng kết quả đo và biểu đồ huyết áp dao động trong ngày.Nhờ số lần đo >60 lần/ ngày mà bác sĩ của bạn sẽ biết được chính xác hơn huyết áp của bạn đã trở về gần bình thường chưa và biết được thời điểm nào huyết áp bạn lên cao hoặc có tụt huyết áp không để điều chỉnh thuốc hạ áp cho bạn.Chi phí cho một lần đo 24 giờ chừng 200.000 đồng là tương đối cao nhưng hiệu quả đánh giá tình trạng huyết áp trong khi điều trị là khá lớn và cho đến nay đây là biện pháp tốt nhất để đánh giá hiệu quả điều trị so với đo huyết áp tại phòng khám hoặc tự đo tại nhà.
Hình 2: Một người cao huyết áp đang mang máy theo dõi huyết áp 24 giờ (ABPM)
Điều trị cao huyết áp chỉ thật sự ích lợi khi trị số huyết áp được đưa về gần như bình thường.Với trị số này mới có thể ngăn ngừa biến chứng do cao huyết áp.Vấn đề quan trọng là việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân và sử dụng thuốc hợp lý của bác sĩ.Trong nhiều khảo sát gần đây cho thấy chỉ 40-50% bệnh nhân được điều trị cao huyết áp có trị số huyết áp trở về gần bình thường .Người cao huyết áp không tuân thủ đúng điều trị một phần do chưa hiểu hết tầm quan trọng của điều trị huyết áp, do công việc không tái khám và uống thuốc đúng giờ, chi phí thuốc và các xét nghiệm kèm theo trong mỗi lần khám khá đắt và tác dụng phụ của thuốc.
Việc theo dõi điều trị có hiệu quả hay không là vấn đề quan trọng.Có thể bạn tự đo huyết áp ở nhà trung bình > 3lần /ngày sau đó ghi vào sổ theo dõi huyết áp. Khi tái khám bạn nên đem theo để bác sĩ của bạn tham khảo kết hợp với trị số đo huyết áp tại phòng khám bệnh.
Mặc dù huyết áp bạn có thể đã ổn định trong giới hạn cho phép nhưng điều đó không có nghĩa là bạn tự ý ngưng thuốc. Bạn cần khám định kỳ tại bác sĩ chuyên khoa tim mạch mà bạn tin tưởng và tái khám ngay khi bạn thấy có thay đổi bất thường như choáng váng, khó thở...
Luôn luôn tìm nguyên nhân gây ra cao huyết áp:
Hầu hết các trường hợp cao huyết áp đều là không rõ nguyên nhân, do đó ngoài việc điều trị bằng thuốc hạ áp phải lưu ý đến điều trị các yếu tố nguy cơ như tiểu đường ,tăng lipid máu, giảm ăn mặn,chế độ ăn kiêng hợp lý, tập thể dục đều đặn.
Ở người trẻ hoặc người quá già có cao huyết áp cần lưu ý một số nguyên nhân mà việc điều trị can thiệp phẩu thuật có thể chửa trị khỏi hoàn toàn như hẹp eo động mạch chủ, hẹp động mạch thận,u tủy thượng thận.
8 bài thuốc dành cho người tai biến mạch máu não
Tai biến mạch não là một bệnh mà do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Đây cũng là tai biến rất thường gặp ở người cao tuổi… Bệnh khởi phát đột ngột, phần lớn gây tử vong nhanh chóng hoặc để lại di chứng tàn phế nghiêm trọng.
Nguyên nhân chủ yếu do tăng huyết áp và xơ vữa động mạch hoặc có thể kết hợp cả hai, còn có thể gặp ở bệnh nhân mắc các bệnh van tim như hẹp hở hai lá, bệnh nhân đái tháo đường, thiểu năng tuần hoàn não…
Mùa lạnh, bị gió lùa, uống bia rượu say, làm việc trí óc quá căng thẳng, tức giận, lo lắng quá mức, ăn quá no… là những hoàn cảnh thuận lợi gây ra tai biến mạch máu não
Tai biến mạch máu não theo y học cổ truyền thuộc phạm trù trúng phong. Phong có ngoại phong và nội phong. Tai biến mạch máu não thuộc nội phong.
Nội phong được chia thành hai chứng là bế chứng và thoát chứng.
Bế chứng thường do phong động, đàm nghịch, biểu hiện tổng hợp là thần chí hôn mê (nóng), hàm răng nghiến chặt, hai tay nắm lại, đờm rãi ủng tắc, mạch huyền cấp hoặc hồng sáp, trong đó kèm theo hiện tượng nhiệt là “dương bế”, dương bế thường do phong đởm, nhiệt đởm gây ra.
Thoát chứng thường do chân khí bị bạo tuyệt, có những biểu hiện nguy hiểm đến tính mạng như mồ hôi ra thành giọt, chân tay quyết lạnh, mắt nhắm miệng há, tay xòe, hơi thở yếu đại tiểu tiện không tự chủ.
Trúng phong là bệnh cấp tính, diễn biến nhanh và nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng người bệnh vì vậy cần cấp cứu kịp thời ngay. Để điều trị có hiệu quả phải căn cứ vào triệu chứng và nguyên nhân gây bệnh để xử lý đúng và thích hợp. Ngoài việc kết hợp điều trị bằng y học hiện đại và y học cổ truyền, các món ăn, bài thuốc cũng có tác dụng hỗ trợ đắc lực để giúp bệnh nhân nhanh chóng hồi phục, qua khỏi cơn nguy hiểm, giảm bớt biến chứng, di chứng.
Bài 1: Nhân quả đào12g, thảo quyết minh 12g, tất cả sắc kỹ, cho vào ít mật ong quấy đều. Bài thuốc có tác dụng chữa chứng tăng huyết áp tắc mạch máu não. Không được dùng bài thuốc này cho người bị xuất huyết não.
Bài 2: Cháo trai, sò: Dùng 50g trai, 50g con hàu (sò), cho 100g gạo tẻ vào nước trai, hàu nấu thành cháo, ăn mỗi ngày 2 lần. Điều trị có hiệu quả chứng tăng huyết áp tai biến mạch máu não, nhức đầu chóng mặt, gan dương thịnh. Chú ý những người mắc chứng hư hàn không được dùng.
Cháo trai.
Bài 3:
Cháo hoa cúc: Hoa cúc bỏ cuống, sấy khô, tán nhỏ. Mỗi lần dùng 100g gạo tẻ nấu cháo, khi cháo chín, cho 15g bột hoa cúc vào quấy đều, đun sôi vài phút là được, ăn vào hai bữa sáng, chiều. Hoặc có thể lấy mầm cây cúc tươi rửa sạch, thái nhỏ, cho vào 100g gạo tẻ, nấu thành cháo để ăn cũng được. Món cháo này phù hợp với những người mắc chứng trúng phong, huyết áp tăng, nhức đầu, chóng mặt. Chú ý những người cao tuổi, tỳ hư, đái đường không được dùng.
Bài 4: Hoàng kỳ 15g, bạch thược sao vàng và quế mỗi thứ 15g, gừng tươi 15g, sắc kỹ, lấy nước bỏ bã. Lấy 100g gạo tẻ, 4 quả táo tầu, nước vừa đủ nấu thành cháo. Khi cháo chín cho nước thuốc vào quấy đều, mỗi ngày ăn một lần. Chữa di chứng sau tai biến mạch máu não (sau khi trúng phong, khí huyết đều hư, liệt nửa người, chân tay teo mềm không hoạt động được, lưỡi thâm, bựa lưỡi trắng, mạch vi hoạt…). Điều trị liên tục sẽ có hiệu quả, những người huyết áp không cao, xuất huyết não đã dừng khám chẩn đoán tắc mạch não có thể dùng bài thuốc này.
Bài 5: Hoàng kỳ 10g, táo tầu 10 quả, đương qui 10g, kỷ tử 10g, thịt lợn nạc 100g thái lát. Tất cả cho vào ninh nhừ, cho ít gia vị, ăn thịt uống nước. Bài thuốc này có tác dụng bổ hư trợ dương, tăng cường khí huyết, sinh huyết. Thích hợp với người bị di chứng sau tai biến mạch máu não như teo chân tay, tê liệt, bán than bất toại… Chú ý những người mắc chứng ngoại cảm nóng, gan dương đều thịnh thì không được dùng bài thuốc này.
Chè vừng đen.
Bài 6:
Kỷ tử 30g, mạch môn đông 30g, sắc lấy nước uống thay nước chè, uống hết trong ngày. Chữa trị các chứng sau trúng phong như nhức đầu chóng mặt, nhìn không rõ, huyết áp tăng, mặt đỏ phừng phừng. Chú ý những người mắc bệnh chứng hư hàn, đại tiện lỏng không được dùng bài thuốc này.
Bài 7: Thiên ma 100g, não lợn một bộ làm sạch cho vào bát, đổ nước vừa đủ, hấp cách thủy. Mỗi ngày hoặc cách ngày ăn một lần. Có hiệu quả chữa bán thân bất toại do tai biến mạch não.
Bài 8: Vừng đen hòa với đường: Mỗi lần dùng hai thìa vừng đen đã rang chín, hòa một ít đường trắng, quấy đều, uống với nước sôi, có tác dụng sinh huyết, giãn cơ bắp, chữa bán thân bất toại.
BS. Thu Hương
Thực phẩm cho người đái tháo đường, cao huyết áp
July 31st, 2011 admin
Thực phẩm và bệnh cao huyết áp
Một số người mắc bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) lại mắc luôn cả bệnh cao huyết áp, bởi vậy thực phẩm cho nhóm người này nhất thiết phải chú ý đến 2 yếu tố là giảm cả muối lẫn đường. Dưới đây là một số khuyến cáo có liên quan do Hiệp hội nghiên cứu ĐTĐ Mỹ (ADF) giới thiệu.
1. Chú ý đến chất béo
Cao huyết áp ở người ĐTĐ không có nghĩa là phải tránh xa tất cả các chất béo mà phải đề phòng đến các loại mỡ bão hòa (saturated fats) không có lợi cho cơ thể, gây tắc nghẽn mạch máu, làm tăng huyết áp. Vì lí do trên nên hạn chế nhóm mỡ từ động vật, mỡ trans-fat (mỡ chiên đi chiên lại), tăng cường các loại dầu thực vật, nhất là dầu ô-liu. Hạn chế thực phẩm rán, nướng trực tiếp trên ngọn lửa cao.
2. Chú ý về carbohydrate
Carbohydrate (viết tắt carb) là nguồn thực phẩm gồm đường, tinh bột và chất xơ, thực phẩm chủ đạo để sản xuất năng lượng cho cơ thể. Chúng rất quen thuộc nhưng lại là thủ phạm làm tăng hàm lượng đường trong máu và tăng huyết áp. Vì lí do này mà người bệnh chỉ nên ăn vừa phải, chia nhỏ thành nhiều bữa, không nên ăn quá nhiều, quá no và lâu ngày sẽ làm suy yếu mạch máu và gây bệnh. Ăn chậm, nhai kĩ và nên kết hợp thực phẩm carb với rau xanh, trái cây để cân bằng năng lượng, ca-lo cần thiết mỗi ngày.
3. Giảm tiêu thụ cholesterol
Để duy trì đồng thời cả huyết áp lẫn đường huyết, nên chọn thực phẩm có hàm lượng cholesterol tốt, tránh thực phẩm có hàm lượng cholesterol cao. Trong số những loại thực phẩm có hàm lượng cholesterol thấp và tốt thì rau xanh hoa quả được xếp đầu bảng, tiếp đến là nhóm thực phẩm nguyên chất, dạng củ, quả, hạt ít qua chế biến. Sử dụng sữa bò, dê cừu có hàm lượng mỡ thấp.
4. Nguồn protein
Một trong những tiêu chí sử dụng protein ở nhóm người mắc bệnh ĐTĐ – cao huyết áp là dùng nguồn protein dễ chuyển hóa thành năng lượng. Ví dụ, thịt là thực phẩm giàu protein nhưng chỉ nên dùng thịt nghèo (thịt nạc) vừa có tác dụng duy trì năng lượng lại hạn chế mỡ không có lợi. Nếu là nguồn protein trong sữa, nên dùng sữa tách bơ có hàm lượng đường thấp. Ngoài ra có thể dùng luân phiên đậu, trứng, thịt gia cầm để bổ sung nguồn protein cho cơ thể.
Trước khi áp dụng bất kì cách ăn uống thiết thực nào cũng nên có sự tư vấn về chuyên môn để tránh dùng sai thực phẩm, tạo ra những phản ứng bất lợi cho cơ thể. Cuối cùng, nên nhớ mọi sự lạm dụng về dưỡng chất đều không tốt, tuy vậy có thể dùng mọi dưỡng chất khác nhau nhưng chỉ dùng ở mức vừa phải.
5. Chú ý khi ăn nhẹ buổi tối
Một trong những giải pháp tốt về ăn uống đối với người ĐTĐ – cao huyết áp là nên ăn nhiều bữa trong ngày, ăn nhẹ vào buổi tối trước khi đi ngủ nhằm ngừa giảm đường huyết. Để làm được điều này trước tiên nên chọn các món ăn nhẹ thích hợp, trọng tâm là các loại hoa quả, chế biến thành món xa-lát, như táo, dâu tây, quả lựu, nhóm quả mọng, mận đào, thực phẩm giàu vi-ta-min và chất xơ để duy trì năng lượng, giúp cơ thể khử độc.
Ngoài ra có thể dùng sữa, sữa chua có hàm lượng mỡ thấp làm từ đậu nành, củ quả nguyên chất hoặc ăn nhẹ bằng các món cháo cá, thịt. Đối với các món bánh nên dùng bánh mì, bơ lạc, bánh làm từ ngô, hoặc kết hợp ăn thực đơn từ nhiều loại hạt nguyên chất và cuối cùng nên nhớ chỉ ăn nhẹ trước khi đi ngủ
(theo nguoicaotuoi)
Để tìm hiểu thêm các bạn có thể vào trang http://www.thaythuoccuaban.com. Tại đây bạn có thể nói chuyện, tâm sự và nhận được sự tư vấn trực tiếp của Lương y Quốc gia Nguyễn Hữu Toàn. Bạn có thể hoàn toàn yên tâm khi được Lương y Nguyễn Hữu Toàn bắt bệnh và chữa trị khỏi bệnh cao huyết áp chỉ khoảng 8-12 tuần sử dụng thuốc. Các bệnh nhân ở xa sẽ được chuyển thuốc đến tận nơi, theo địa chỉ bệnh nhân cụ thể. Nếu bạn có thắc mắc về sức khỏe của mình, bạn có thể vào trang http://www.thaythuoccuaban.com/benhan.asp kể bệnh để nhận được sự tư vấn của Lương y Phòng khám đông y Nguyễn Hữu Toàn - Lô 22 - Lê Hồng Phong - Ngô Quyền - Hải Phòng ĐT: 0313 722083 - 031.3246181
ad more »
Dùng táo mèo chữa cao huyết áp
June 10th, 2011 admin
Táo mèo trong Đông y có tên là sơn tra, có tác dụng hạ huyết áp nhờ làm giãn mạch ngoại vi. Mặt khác, nó còn giúp hạ mỡ máu, chống huyết khối, làm giãn động mạch vành, cải thiện sức co bóp cơ tim, phòng chống tích cực các biến chứng do cao huyết áp gây ra.
Một số cách dùng sơn tra chữa cao huyết áp:
Sơn tra 15g, hà diệp (lá sen) 20 g. Hai thứ tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, thanh dẫn thông trệ, làm giãn mạch máu, dùng thích hợp cho người bị cao huyết áp và béo phì có kèm theo đau đầu, hoa mắt, chóng mặt.
Sơn tra 10 g, cúc hoa 10 g, lá trà tươi 10 g, ba thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt trừ đàm, bình can tiềm dương, dùng cho người bị cao huyết áp, bệnh lý mạch vành và rối loạn lipid máu.
Sơn tra 24 g, cúc hoa15 g, kim ngân hoa 15 g, tang diệp (lá dâu) 12 g. Tất cả sấy khô, tán nhỏ, hãm với nước sôi trong bình kín, chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh can nhiệt, hóa ứ tích, dùng thích hợp cho những người bị cao huyết áp thuộc thể can nhiệt ứ trở biểu hiện bằng các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, mất ngủ, dễ cáu giận, miệng khô họng khát, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ…
Sơn tra 50 g, gạo tẻ 50 g, đường phèn vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái phiến, đem nấu với gạo tẻ thành cháo, chế thêm đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Khứ ứ huyết, tiêu thực tích, dùng cho những người bị cao huyết áp, rối loạn lipid máu.
Sơn tra sao đen 12 g, thảo quyết minh 12 g, hoa cúc trắng 9 g. Ba thứ sấy khô, tán nhỏ, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Sơ phong, tán nhiệt, bình can, giáng áp, nhuận tràng thông tiện, dùng rất tốt cho những người bị cao huyết áp có kèm theo táo bón kéo dài.
Sơn tra 9-15 g, hoàng kỳ 30-60 g, cát căn 15-30 g, tang ký sinh 15-30 g, đan sâm 20-40 g. Tất cả đem sắc 2 lần, mỗi lần 30 phút, sau đó cô lại còn khoảng 300-400 ml, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ khí hoạt huyết, ích tâm kiện não, dùng thích hợp cho những người bị cao huyết áp có kèm theo rối loạn tuần hoàn não. Nó cũng cải thiện rối loạn nhịp tim thuộc thể khí hư huyết ứ, biểu hiện bằng các triệu chứng như: Tinh thần mệt mỏi, hay có cảm giác khó thở, ngại hoạt động, kém ăn, hay hoa mắt chóng mặt, dễ vã mồ hôi, đau tức hoặc đau nhói vùng ngực sườn, mạch có lúc không đều, đại tiện nát, phụ nữ kinh nguyệt không đều, bế kinh hoặc thống kinh.
Sơn tra 16 g, sinh đỗ trọng 16 g, thảo quyết minh 16 g, tiên ngọc mễ tu (râu ngô tươi) 62 g, hoàng bá 6 g, sinh đại hoàng 3 g. Tất cả đem sắc với 6 bát nước, cô lại còn 3 bát, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ can thận, thanh can nhiệt, giáng áp, dùng thích hợp cho những người bị cao huyết áp, béo phì.
Hải đới 30 g, sơn tra 30 g, mã thầy 10 củ, chanh 3 quả. Hải đới rửa sạch, cắt ngắn; sơn tra bỏ hạt, thái miếng; mã thầy bóc vỏ, thái vụn; chanh cắt lát. Tất cả đem sắc kỹ, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, cường tim lợi thủy, giáng áp, dùng tốt cho người bị cao huyết áp.
Sơn tra 30 g, táo tây 30 g, rau cần tây 3 cây, đường phèn vừa đủ. Sơn tra và táo bỏ hạt, thái miếng; rau cần rửa sạch, cắt đoạn. Tất cả cho vào bát to, đổ thêm 300 ml nước rồi đem hấp cách thủy, sau chừng 30 phút là được, cho thêm đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết, giáng áp, dùng cho người bị cao huyết áp và rối loạn lipid máu.
Sơn tra 150 g, đậu xanh 150 g, đường phèn vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái miếng; đậu xanh rửa sạch, ngâm trong nước 30 phút. Hai thứ đem sắc kỹ, cho thêm đường phèn, chia uống hai lần trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, thanh nhiệt giáng áp, dùng thích hợp cho người bị cao huyết áp có các biểu hiện nhiệt chứng.
Sinh địa 200 g, sơn tra 500 g, đường trắng 100 g. Sinh địa rửa sạch, thái lát; sơn tra bỏ hạt, thái phiến. Hai thứ đem sắc trước cho thật nhừ, cho thêm đường rồi đánh nhuyễn thành dạng cao lỏng, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Dưỡng âm lương huyết, hoạt huyết giáng áp và làm mềm mạch máu, dùng cho người bị cao huyết áp thuộc thể âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng người gầy, lòng bàn tay, bàn chân nóng, hay có cảm giác sốt nhẹ về chiều, miệng khô họng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ…
Sơn tra 30 g, quyết minh tử 30 g, lá sen tươi nửa lá, đại táo 4 quả, thịt lợn nạc 250 g, gia vị vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái phiến; quyết minh tử rửa sạch; đại táo bỏ hạt; lá sen rửa sạch thái nhỏ; thịt lợn rửa sạch thái miếng. Tất cả cho vào nồi hầm nhừ, nêm đủ gia vị, chia ăn vài lần. Công dụng: Thanh can tiết nhiệt, làm giãn mạch máu và giáng áp, dùng cho người bị cao huyết áp thuộc thể Can dương thượng xung, biểu hiện: mặt đỏ, mắt đỏ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tính tình nóng nảy, ngực sườn đầy tức, đại tiện táo, có thể hay chảy máu cam.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
Dùng táo mèo chữa cao huyết áp
Táo mèo trong Đông y có tên là sơn tra, có tác dụng hạ huyết áp nhờ làm giãn mạch ngoại vi. Mặt khác, nó còn giúp hạ mỡ máu, chống huyết khối, làm giãn động mạch vành, cải thiện sức co bóp cơ tim, phòng chống tích cực các biến chứng do cao huyết áp gây ra.
Một số cách dùng sơn tra chữa cao huyết áp:
Sơn tra 15g, hà diệp (lá sen) 20 g. Hai thứ tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, thanh dẫn thông trệ, làm giãn mạch máu, dùng thích hợp cho người bị cao huyết áp và béo phì có kèm theo đau đầu, hoa mắt, chóng mặt.
Sơn tra 10 g, cúc hoa 10 g, lá trà tươi 10 g, ba thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt trừ đàm, bình can tiềm dương, dùng cho người bị cao huyết áp, bệnh lý mạch vành và rối loạn lipid máu.
Sơn tra 24 g, cúc hoa15 g, kim ngân hoa 15 g, tang diệp (lá dâu) 12 g. Tất cả sấy khô, tán nhỏ, hãm với nước sôi trong bình kín, chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh can nhiệt, hóa ứ tích, dùng thích hợp cho những người bị cao huyết áp thuộc thể can nhiệt ứ trở biểu hiện bằng các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, mất ngủ, dễ cáu giận, miệng khô họng khát, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ…
Sơn tra 50 g, gạo tẻ 50 g, đường phèn vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái phiến, đem nấu với gạo tẻ thành cháo, chế thêm đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Khứ ứ huyết, tiêu thực tích, dùng cho những người bị cao huyết áp, rối loạn lipid máu.
Sơn tra sao đen 12 g, thảo quyết minh 12 g, hoa cúc trắng 9 g. Ba thứ sấy khô, tán nhỏ, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Sơ phong, tán nhiệt, bình can, giáng áp, nhuận tràng thông tiện, dùng rất tốt cho những người bị cao huyết áp có kèm theo táo bón kéo dài.
Sơn tra 9-15 g, hoàng kỳ 30-60 g, cát căn 15-30 g, tang ký sinh 15-30 g, đan sâm 20-40 g. Tất cả đem sắc 2 lần, mỗi lần 30 phút, sau đó cô lại còn khoảng 300-400 ml, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ khí hoạt huyết, ích tâm kiện não, dùng thích hợp cho những người bị cao huyết áp có kèm theo rối loạn tuần hoàn não. Nó cũng cải thiện rối loạn nhịp tim thuộc thể khí hư huyết ứ, biểu hiện bằng các triệu chứng như: Tinh thần mệt mỏi, hay có cảm giác khó thở, ngại hoạt động, kém ăn, hay hoa mắt chóng mặt, dễ vã mồ hôi, đau tức hoặc đau nhói vùng ngực sườn, mạch có lúc không đều, đại tiện nát, phụ nữ kinh nguyệt không đều, bế kinh hoặc thống kinh.
Sơn tra 16 g, sinh đỗ trọng 16 g, thảo quyết minh 16 g, tiên ngọc mễ tu (râu ngô tươi) 62 g, hoàng bá 6 g, sinh đại hoàng 3 g. Tất cả đem sắc với 6 bát nước, cô lại còn 3 bát, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ can thận, thanh can nhiệt, giáng áp, dùng thích hợp cho những người bị cao huyết áp, béo phì.
Hải đới 30 g, sơn tra 30 g, mã thầy 10 củ, chanh 3 quả. Hải đới rửa sạch, cắt ngắn; sơn tra bỏ hạt, thái miếng; mã thầy bóc vỏ, thái vụn; chanh cắt lát. Tất cả đem sắc kỹ, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, cường tim lợi thủy, giáng áp, dùng tốt cho người bị cao huyết áp.
Sơn tra 30 g, táo tây 30 g, rau cần tây 3 cây, đường phèn vừa đủ. Sơn tra và táo bỏ hạt, thái miếng; rau cần rửa sạch, cắt đoạn. Tất cả cho vào bát to, đổ thêm 300 ml nước rồi đem hấp cách thủy, sau chừng 30 phút là được, cho thêm đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết, giáng áp, dùng cho người bị cao huyết áp và rối loạn lipid máu.
Sơn tra 150 g, đậu xanh 150 g, đường phèn vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái miếng; đậu xanh rửa sạch, ngâm trong nước 30 phút. Hai thứ đem sắc kỹ, cho thêm đường phèn, chia uống hai lần trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, thanh nhiệt giáng áp, dùng thích hợp cho người bị cao huyết áp có các biểu hiện nhiệt chứng.
Sinh địa 200 g, sơn tra 500 g, đường trắng 100 g. Sinh địa rửa sạch, thái lát; sơn tra bỏ hạt, thái phiến. Hai thứ đem sắc trước cho thật nhừ, cho thêm đường rồi đánh nhuyễn thành dạng cao lỏng, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Công dụng: Dưỡng âm lương huyết, hoạt huyết giáng áp và làm mềm mạch máu, dùng cho người bị cao huyết áp thuộc thể âm hư, biểu hiện bằng các triệu chứng người gầy, lòng bàn tay, bàn chân nóng, hay có cảm giác sốt nhẹ về chiều, miệng khô họng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ…
Sơn tra 30 g, quyết minh tử 30 g, lá sen tươi nửa lá, đại táo 4 quả, thịt lợn nạc 250 g, gia vị vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái phiến; quyết minh tử rửa sạch; đại táo bỏ hạt; lá sen rửa sạch thái nhỏ; thịt lợn rửa sạch thái miếng. Tất cả cho vào nồi hầm nhừ, nêm đủ gia vị, chia ăn vài lần. Công dụng: Thanh can tiết nhiệt, làm giãn mạch máu và giáng áp, dùng cho người bị cao huyết áp thuộc thể Can dương thượng xung, biểu hiện: mặt đỏ, mắt đỏ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, tính tình nóng nảy, ngực sườn đầy tức, đại tiện táo, có thể hay chảy máu cam.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
7 bí quyết giảm huyết áp cao
June 10th, 2011 admin
cao huyết áp là một trong những bệnh gây biến chứng nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Những bí quyết đơn giản và hiệu quả sau sẽ giúp giảm áp lực mạch máu.
Bổ sung cà chua vào chế độ ăn: Chất lycopene trong cà chua rất hiệu quả trong việc giảm huyết áp cao. Việc bổ sung cà chua vào chế độ ăn giúp giảm áp 10 chỉ số áp lực máu lên tâm thu và 4 chỉ số ở tâm trương. Lượng cà chua tốt cho sức khỏe là 4 quả mỗi ngày và chia vào các món salad, nước sốt hay nước ép cà chua đều có tác dụng tương tự với sức khỏe.
Ăn thực phẩm có ít chất béo: Chế độ ăn uống cân bằng với các loại rau, quả, ngũ cốc nguyên cám, protein từ thịt nạc và các sản phẩm sữa ít béo là lựa chọn lý tưởng cho chế độ ăn khỏe mạnh. Các thực phẩm có ít chất béo và lượng cholesterol thấp có tác dụng giảm huyết áp tương tự như việc sử dụng các loại thuốc huyết áp.
Uống rượu vang đỏ: Một hoặc hai ly rượu vang đỏ chứa lượng chất chống ôxy hóa cao có tác dụng bảo vệ các động mạch khỏi ảnh hưởng của các gốc tự do và phòng ngừa chứng xơ cứng động mạch. Chất ôxy hóa flavonol có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa sự hình thành các cục máu đông. Rượu vang đỏ giúp lưu thông máu và làm sạch thành mạch. Khi các động mạch giãn nở ở độ thích hợp sẽ làm giảm áp suất máu.
Giảm lượng cafein: Các nghiên cứu đã cho thấy rằng, việc uống 5 cốc cà-phê mỗi ngày có thể làm tăng huyết áp. Vì thế, muốn huyết áp không tăng thì nên giảm lượng cà-phê uống vào.
Tập luyện: Các bài tập sử dụng nhiều cơ bắp là cách luyện tập hiệu quả nhất trong việc khống chế huyết áp. Thực tế, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tập luyện có thể giảm 11 chỉ số ở tâm thu và 9 chỉ số ở tâm trương.
Tập yoga: Bài tập yoga có tên asanas giúp kéo căng các cơ, khớp đồng thời giúp cơ thể vận động với nhiều tư thế khác nhau. Việc tập luyện này giúp giảm đáng kể mệt mỏi và căng thẳng. Hiệu quả nhất của asanas trong giảm áp suất máu là những động tác uốn cong cơ thể ra phía trước có tác dụng tốt lên não, hệ thần kinh và cải thiện lưu thông máu lên não, giảm stress. Hơn nữa, asanas còn làm giảm tốc độ lưu chuyển của dòng máu vì thế áp suất máu giảm.
Châm cứu: Theo nghiên cứu gần đây thì việc kích thích dòng điện cường độ nhỏ lên những điểm cụ thể ở vùng chân trước của chuột sẽ có tác dụng giảm huyết áp. Từ lâu, châm cứu đã được biết đến là có lợi cho sức khỏe của con người. Trong 2 cách châm cứu là châm cứu bằng tay và dòng điện thì việc châm cứu bằng dòng điện có hiệu quả giảm huyết áp hơn nếu được thực hiện đều đặn trong thời gian dài.
Theo Báo Đà Nẵng
Người cao huyết áp không nên ăn da gà
Theo y học hiện đại, phần da và não của gà chứa rất nhiều cholesterol nên những người bị cholesterol trong máu tăng, xơ mỡ động mạch, cao huyết áp, béo phì đều không nên ăn.
Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi ăn một lượng lớn và không kèm một số loại rau củ có tác dụng cản trở cơ thể hấp thu cholesterol (như cà chua, dưa leo, giá đậu, rau xà lách, đậu hũ, cùng các loại rau củ có nhiều chất xơ).
Hơn nữa, cholesterol được hấp thu nhiều hay ít, tốt hay xấu cũng còn tùy thuộc vào một số yếu tố như lượng cholesterol đưa vào, thể trạng, cách ăn uống, sinh hoạt, tâm lý…
Protein ở da động vật gồm nhiều chất hợp thành, trong đó có collagen là chất có tác dụng tăng cường sự hấp thu ôxy của da, giữ độ ẩm và làm tăng tính đàn hồi của da, chống lão hóa da, bảo vệ làn da trước sự tấn công của các yếu tố bất lợi từ môi trường, thúc đẩy sự sinh trưởng, phát dục ở trẻ nhỏ… Vì thế, collagen được coi là một tố chất giúp bảo vệ làn da, bảo vệ nhan sắc, chống lão hóa trong thời hiện đại.
Não của động vật chứa nhiều phospholipid và cholesterol. Phospholipid có tác dụng giúp tạo tế bào mới, tạo vỏ bọc của tế bào thần kinh, thúc đẩy sự truyền tín hiệu của các tế bào thần kinh. Cholesterol rất cần thiết cho việc tạo các hormone sinh dục và hormon vỏ thượng thận.
Khi ăn não của một số động vật là chúng ta đang đưa vào cơ thể một lượng phospholipid và cholesterol đáng kể. Những chất này sẽ giúp tăng cường năng lực hoạt động của não bộ, bổ dưỡng tế bào thần kinh, tăng trí nhớ, giúp trẻ nhỏ phát triển và giúp hoạt động của các hormone sinh dục được tốt hơn.
Theo NLĐ
Các bài thuốc bí truyền chữa cao huyết áp
June 10th, 2011 admin
Có thể cải thiện tình trạng cao huyết áp bằng món cháo rau cần: rau cần tươi (cả rễ) 50 g rửa sạch, thái nhỏ, cho vào nấu cháo với 60 g gạo tẻ. Mỗi ngày ăn vào buổi sáng và bữa tối. Ăn liền 7 ngày.
Một số bài thuốc khác:
n định huyết áp: Ngô thù du tán bột mịn, mỗi lần dùng 30 g trộn với giấm ăn thành bột sền sệt; trước khi đi ngủ đắp thuốc vào huyệt dũng tuyền ở hai bàn chân, dùng băng gạc cố định lại. Mỗi ngày thay thuốc một lần. Đắp dán thuốc liên tục 3-5 lần thì huyết áp ổn định.
Trị bệnh tăng huyết áp: Đào nhân 12 g, hạnh nhân 12 g, chi tử 12 g, hồ tiêu 4g, gạo nếp 14 hạt, lòng trắng trứng gà 1/3 trứng. Đem giã nát 5 vị thuốc, trộn 1/3 lòng trắng trứng vào cho đều, đắp dán thuốc vào huyệt dũng tuyền ở 2 lòng bàn chân vào mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Dùng gạc băng cố định lại, sáng hôm sau bỏ thuốc ra. Đắp dán 6 đêm liền. Nếu thấy da ở chỗ đắp dán thuốc có màu tím tái thì cũng đừng lo ngại.
Cách ngâm rửa chữa tăng huyết áp: Hạ khô thảo 30 g, câu đằng 20 g, tăng diệp 20 g, cúc hoa 20 g. Nấu các vị trên với 2 lít nước sôi 15 phút. Để nước thuốc còn nóng 30-50 độ C, đổ vào thau. Ngâm 2 chân vào, đồng thời không ngừng vò kỹ 2 bàn chân vào nhau khoảng 30 phút. Ngày 1 lần.
Cháo thuốc: Mộc nhĩ đen ngâm nở, xé thành miếng nhỏ. Táo tàu ngâm qua nước sôi, rửa sạch thái nhỏ, bỏ hạt, cho ít đường vào trộn ngâm 20 phút. Mộc nhĩ đen và gạo tẻ nấu thành cháo xong cho táo tàu và nước đường vào nấu thêm 10 phút, ăn vào bữa điểm tâm và bữa tối.
Trà thuốc: Rau ngót 90%, chè xanh 10%, tán bột thô. Mỗi ngày dùng 50 g, hãm với 1 lít nước sôi, uống cả ngày. Thuốc có công dụng tiêu mỡ thừa, hạ áp. Hoặc:
- Sơn tra 80%, lá sen 20%, tán bột thô, ngày dùng 30 g, hãm với 1 lít nước sôi, uống cả ngày, dùng cho người béo phì, mỡ máu cao, cao huyết áp.
- Hoa cúc 40%, hoa hoè 30%, chè xanh 30%, tán bột thô. Ngày dùng 30 g, hãm với một lít nước sôi, công dụng mát huyết, hạ áp, dành cho người xơ mỡ động mạch, huyết áp tăng.
- Chi tử 50%, chè xanh 50%, tán bột thô, ngày dùng 60 g, hãm với 1 lít nước sôi, có công dụng mát huyết, hạ áp; chữa cao huyết áp, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt.
- Cúc hoa 6 g, hoa hoè 6 g, chè xanh 6 g, long đởm thảo 10 g, hãm với 1 lít nước sôi, uống cả ngày, có công dụng giãn mạch, hạ áp, giảm cholesterol huyết.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
Kiến thức cần biết về bệnh tăng huyết áp
June 10th, 2011 admin
Bệnh tăng huyết áp, một trong 4 bệnh đặc trưng của mô hình bệnh tật thế kỷ 21. Số người mắc căn bệnh này gia tăng tỉ lệ thuận với sự tăng trưởng của nền kinh tế xã hội và tuổi thọ của con người.
Kiến thức chung
Theo điều tra của Viện tim mạch năm 2002, ở Việt Nam có số nguời mắc bệnh tăng huyết áp chiếm 16,62%, ở Hà Nội cao hơn (23%). Trên thế giới, tỉ lệ đó dao động trong khoảng 8 đến 18%, cụ thể ở Thái Lan 27%, Hoa Kỳ 24%, Pháp 10-25%, Đài Loan trên 25%. Hiện nay, số người bị huyết áp cao ở Việt Nam đang có nguy cơ cao dần lên.
Con số trên thật đáng sợ và có thể coi đây là một bệnh xã hội đáng báo động. Số người tăng huyết áp nhiều dẫn đến các biến chứng nguy hiểm xảy ra. Điều này đồng nghĩa với sức khỏe lao động trong xã hội kém đi, thậm chí có thể gây tử vong cho người bệnh. Và khi số người tăng huyết áp nhiều như vậy, chi phí xã hội, chi phí cho việc chăm sóc đối với những người tăng huyết áp, đặc biệt những người tai biến tăng huyết áp rất lớn và trở thành vấn đề khó khăn cho xã hội.
Biến chứng sợ nhất của bệnh tăng huyết áp là tai biến mạch máu não, mạch bị tắc lại hoặc vỡ khiến bệnh nhân dễ bị liệt, đáng sợ nhất là có thể dẫn đến tử vong. Bệnh nhân không thể sinh hoạt, làm việc bình thường, có người phải nằm liệt giường, điều này tạo nhiều áp lực khó khăn cho bản thân và cho gia đình.
Chúng ta, ngoài ngành y tế, cả xã hội chúng ta phải quan tâm, nói cho đúng bản thân mỗi người phải phòng bệnh tăng huyết áp ngay từ khi chúng ta còn chưa tăng huyết áp.
Bệnh tăng huyết áp có thể gặp ở bất cứ tuổi nào nhưng khi càng lớn tuổi tỷ lệ tăng huyết áp càng ngày càng nhiều. Người trên 65 tuổi ( khoảng 50%) phần lớn bị mắc bệnh. Tăng huyết áp còn phụ thuộc vào địa dư, tuổi tác, giới tính, chủng tộc, nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên, nam giới thường mắc bệnh nhiều hơn nữ giới.
Triệu chứng và nguyên nhân và những vướng mắc trong điều trị
GS.TS Phạm Gia Khải – Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam – Bệnh viện Bạch Mai và GS.TS Nguyễn Lân Việt – Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội, Phó viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam – Bệnh viện Bạch Mai trả lời các câu hỏi của khán giả về bệnh tăng huyết áp.
Khi bị tăng huyết áp người bệnh có biểu hiện như thế nào thưa giáo sư Phạm Gia Khải?
Để phát hiện sớm xem bản thân có mắc bệnh tăng huyết áp hay không thì bắt buộc bạn phải đo huyết áp. Chúng ta cần thường xuyên kiểm tra chỉ số huyết áp chứ đừng đợi đến lúcĩúât hiện các triệu chứng tăng huyết áp tương đối rõ. Một số biểu hiện thường gặp khi huyết áp tăng cao là chóng mặt, nhức đầu, nhìn mờ, hoặc nghe o o ở tai.
Tuy nhiên, nhiều người không có triệu chứng như thế nhưng khi đi đo huyết áp mới biết mình bị huyết áp cao. Do đó, các chuyên gia khuyên mọi người nên đi khám sức khoẻ định kỳ và thường xuyên đo huyết áp chứ đừng đợi khi có các triệu chứng.
Thưa giáo sư Nguyễn Lân Việt, xin giáo sư cho biết những yếu tố dẫn tới bệnh tăng huyết áp? Và nếu một người vừa béo phì vừa uống rượu thì khả năng bị tăng huyết áp tăng lên gấp bao nhiêu lần?
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh như hút thuốc, uống rượu ngoài ra còn có thể do cách sống, sinh hoạt thay đổi. Ngoài ra, những lo lắng, stress cũng là yếu tố dẫn đến huyết áp tăng.
Và đối với một người vừa béo phì vừa uống rượu, nguy cơ tăng huyết áp còn cao hơn nhiều. Bởi lẽ, ở những người bị rối loạn chuyển hoá mỡ, chuyển hoá cholesterol, hút thuốc lá, uống rượu… chỉ một trong những lý do này cũng đã làm tăng huyết áp rồi, nhưng 2, 3 cái kết hợp thì việc tăng huyết áp có thể cao hơn 1,4-1,6 lần.
Hiện nay có rất nhiều trẻ béo phì sớm, những cháu này về sau rất dễ mắc bệnh tiểu đường và tăng huyết áp. Do vậy, ngay từ khi còn bé, chế độ ăn uống không khoa học cũng là nguyên nhân dẫn đến bệnh tim mạch sau này.
Hầu hết các bệnh nhân phát hiện bị tăng huyết áp một cách tình cờ trong những lần đi khám bệnh. Phương pháp tốt nhất để chẩn đoán bệnh nhân có bị tăng huyết áp hay không đó là nhờ việc đo huyết áp. Khi có nghi ngờ bị tăng huyết áp, bệnh nhân cần được khám tim phổi, soi đáy mắt và làm thêm một số xét nghiệm cận lâm sàng khác. Xét nghiệm sinh hoá máu, điện tim và xét nghiệm nước tiểu. Sau khi có được đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng liên quan trên, bác sĩ mới có thể xác định được chính xác tình trạng và mức độ bệnh của mỗi bệnh nhân.
Thưa bác sĩ Nguyễn Lân Việt, trong phóng sự trên có nói là khi có nghi vấn về bệnh nhân bị tăng huyết áp, bác sĩ sẽ phải tiến hành thêm 1 số biện pháp khám lâm sàng khác như nghe tim phổi, soi đáy mắt… Điều này có ý nghĩa gì?
Khi khám bệnh nhân tăng huyết áp bao giờ cũng có khám lâm sàng và khám toàn diện, chi tiết. Bởi vì phải dựa trên những xét nghiệm cơ bản, bác sĩ mới hiểu rõ được chính xác mức độ bệnh, điều này còn giúp thầy thuốc lựa chọn số thuốc thích hợp.
Bệnh cao huyết áp có những biến chứng đối với tim, mắt, não, thận. Trong khi khám người ta soi đáy mắt, để có thể biết được mức độ tổn thương của người tăng huyết áp như thế nào. Điều này giúp cho bác sĩ tim mạch biết được tình trạng ảnh hưởng đến đáy mắt ra sao, qua đó biết được mức độ bệnh.
Nguyên tắc khám cho bệnh nhân tăng huyết áp phải khám nhiều bệnh khác điều này giúp bác sĩ lựa chọn và có phương pháp điều trị thích hợp nhất.
Thưa GS.TS Phạm Gia Khải, tôi bị bệnh huyết áp đã lâu, huyết áp tối thiểu 100, tối đa 130. Vậy nguyên nhân và cách chữa như thế nào?
Khoảng 90% mắc huyết áp là không rõ nguyên nhân nhưng thường thường ở tuổi trung niên cao. Tăng huyết áp là một bệnh lý mạn tính, do vậy, việc điều trị cũng phải được thực hiện liên tục và kéo dài. Chúng ta không biết nguyên nhân nhưng chúng ta có thể điều trị được bằng 2 phương pháp:
- Sinh hoạt hợp lý, hạn chế ăn mặn, uống rượu, bỏ thuốc lá, hạn chế những lo lắng thái quá, đột ngột. Nên tập thể dục, thể lực 35-40 phút là vừa phải. Không nên tập luyện quá mức, có chế độ ăn hợp lý, điều độ. Tuy nhiên, nếu áp dụng những cách trên mà vẫn không làm giảm huyết áp thì chúng ta phải kết hợp dùng thuốc.
Bạn có thể dùng thuốc giảm áp, beta giao cảm, lợi tiểu… Tuỳ từng trường hợp, bác sĩ sẽ kê đơn cho chúng ta. Tất nhiên, việc dùng thuốc bắt buộc phải có sự tư vấn của bác sĩ. Và cho dù là sử dụng loại thuốc nào đi chăng nữa cũng cần tuân theo y lệnh của bác sĩ để đảm bảo hiệu quả điều trị và an toàn cho sức khoẻ .
Thưa giáo sư Nguyễn Lân Việt: Có nhiều bệnh nhân dùng thuốc thấy đỡ rồi dừng hẳn. Điều này có đúng không ạ?
Tăng huyết áp có tính chất mãn tính, do đó, việc điều trị tăng huyết áp là lâu dài. Nhiều bệnh nhân điều trị huyết áp xuống nghĩ là bệnh khỏi và không dùng nữa, đây là quan niệm hết sức sai lầm.
Tất nhiên, sau khi dùng thuốc, chỉ số huyết áp ổn định dần, nhưng trong nguyên tắc ổn định dần thì chúng ta có thể bớt dùng thuốc đi và theo dõi tiếp huyết áp và điều trị với liều lượng thuốc ít dần.
Khi điều trị bệnh tăng huyết áp, chúng ta phải điều trị lâu dài, chứ chỉ một đợt thấy huyết áp xuống lại bỏ thì nó nguy hiểm hơn thì sau huyết áp sẽ nhảy vọt và biến chứng rất dễ xảy ra.
Vậy khi bệnh nhân đỡ rồi thì khi nào phải sử dụng thuốc tiếp?
Nói chung bệnh nhân tăng huyết áp nên đi khám bệnh định kì, thầy thuốc sẽ giúp phát hiện ra các vấn đề vì tăng huyết áp còn liên quan đến các bệnh khác, khi biết các bệnh khác người thầy thuốc mới giúp cho bệnh nhân có phương thức điều trị một cách tốt nhất tránh tình trạng ra hiệu thuốc tự ý mua thuốc điều này hết sức nguy hiểm.
Cách phòng bệnh tăng huyết áp
Để dự phòng bệnh tăng huyết áp hãy thực hiện một số biện pháp như sau:
- Giảm cân nặng xuống mức tiêu chuẩn vì đã có nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa chỉ số vòng bụng và bệnh tăng huyết áp.
- Không hút thuốc lá.
- Hạn chế uống rượu bia .
- Hạn chế ăn nhiều chất béo như mỡ động vật và các món ăn xào rán, các thực phẩm chứa nhiều cholesterol như phủ tạng động vật, trứng.
- Nên ăn nhạt, ăn nhiều rau xanh và trái cây.
- Nên thực hiện một chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý.
- Luyện tập thể dục thể thao hàng ngày trung bình từ 30-45 phút.
- Cuối cùng nên đi kiểm tra sức khoẻ định kỳ để theo dõi được tình trạng sức khoẻ của mình.
Theo VTV
Mẹo nhỏ làm giảm cơn tăng huyết áp
June 10th, 2011 admin
Một số thao tác như vuốt ấm vành tai, vuốt dọc hai bên mũi… có thể ngăn nguy cơ tai biến về não trước khi bệnh nhân được bác sĩ chăm sóc.
Tăng huyết áp là tình trạng chỉ số huyết áp đo được bằng hoặc lớn hơn 140/90 mmHg, có thể gây tai biến mạch máu não nếu không được điều trị kịp thời. Những thao tác đơn giản sau có thể làm giảm huyết áp khi có cơn, nhưng chỉ áp dụng cho các trường hợp nhẹ chưa có biến chứng.
Vuốt ấm hai vành tai
Dùng ngón cái và ngón trỏ vuốt dọc vành tai từ trên xuống dưới khoảng 9-10 lần. Vành tai và cột sống có những điểm phản xạ tương ứng với nhau, do đó vuốt ấm vành tai cũng là tác động vào cột sống lưng, vừa có tác dụng điều hòa thần kinh giao cảm, vừa kích thích sự lưu thông khí huyết.
Nếu có người bên cạnh, có thể nhờ họ ngồi sau lưng, dùng bàn tay phải vuốt dọc sống lưng từ trên gáy xuống eo để tăng tác dụng.
Vuốt dọc hai bên mũi
Mỗi bàn tay vuốt một bên mũi. Dùng ngón tay trỏ vuốt từ huyệt ấn đường (điểm giữa hai đầu chân mày) xuống dọc theo hai bên mũi qua khóe miệng đến tận chót cằm. Vuốt chậm, nhẹ 15-20 lần.
Việc kích thích huyệt ấn đường làm phóng thích endorphine nội sinh, giúp an thần, hạ huyết áp và giáng khí. Vuốt dọc theo hai bên mũi xuống cằm làm tăng sự lưu thông khí huyết, gây ấm người và làm nhẹ áp lực ở phần đầu.
Vuốt dọc hai chân mày
Dùng hai ngón tay trỏ và giữa vuốt từ ấn đường, đi dài theo chân mày ra thái dương, đến tận chân tóc ở phía ngoài đuôi mắt, mỗi bên khoảng 10 lần. Vùng chân mày và hai cánh tay có những điểm phản xạ tương ứng nhau. Do đó động tác này giải tỏa sự sung huyết tại những huyệt vị hay bị tắc nghẽn ở vùng trán, làm cho khí huyết lưu thông ra hai cánh tay và bàn tay, giúp giảm nhẹ áp lực ở đầu.
Ngồi hoặc nằm thư giãn, tập trung vùng đan điền
Theo y học cổ truyền, thần ở đâu khí ở đó. Do đó khi tập trung ý nghĩ tại vùng đan điền, khí trong cơ thể từ phía trên đầu sẽ lưu chuyển xuống dưới nên có tác dụng hạ khí. Việc tập trung tư tưởng càng tốt, hiệu quả hạ khí càng cao. Động tác này cần kéo dài hơn 10 phút.
Mỗi khi cảm nhận được những dấu hiệu tăng huyết áp như căng, nặng ở vùng thái dương, đau đầu, mờ mắt, mắt đỏ hay trong người thấy bực tức vô cớ, ngực sườn đầy tức…, người bệnh nên ngồi xuống, áp dụng lần lượt 4 động tác trên. Bình tĩnh và tự tin là yếu tố cần thiết trong quá trình thực hiện. Sau khoảng 15 phút thực hành, bệnh nhân có thể cảm thấy bớt khó chịu ở vùng đầu, nhịp đập của tim chậm lại, tay chân ấm lên. Đó là lúc huyết áp đã hạ bớt.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
Dinh dưỡng cho bệnh tăng huyết áp
June 10th, 2011 admin
Việc kiểm soát tốt huyết áp bằng thuốc và không dùng thuốc mà trong đó dinh dưỡng có vai trò quan trọng làm giảm đột quỵ 35 – 40%, nhồi máu cơ tim 20 – 25% và suy tim hơn 50%.
Huyết áp có khuynh hướng tăng dần theo tuổi, gần 90% số người mắc bệnh huyết áp sau 55 tuổi lúc trẻ có huyết áp bình thường.
“Kẻ giết người thầm lặng”
Tăng huyết áp gây tổn thương các cơ quan trong cơ thể như não, mắt, tim, thận, mạch máu. Tại não tăng huyết áp gây ra cơn thiếu máu não thoáng qua, đột quỵ, xuất huyết não, suy giảm nhận thức và sa sút trí tuệ. Tại mắt, tăng huyết áp làm mờ mắt, mù mắt.
Tại tim, tăng huyết áp gây tim lớn, nhồi máu cơ tim và đột tử do tim. Tại thận, tăng huyết áp gây tiểu đạm và cuối cùng là suy thận. Tại mạch máu, tăng huyết áp làm tổn thương phồng bóc tách động mạch chủ, xơ vữa động mạch, viêm tắc động mạch chi…
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường nghe nói người này, người kia bị tăng xông máu, cao máu, lên máu dùng để chỉ bệnh tăng huyết áp nhưng không chính xác. Khi mắc bệnh tăng huyết áp ngoài việc dùng thuốc thì biện pháp điều trị không dùng thuốc – trong đó vai trò của dinh dưỡng để phòng ngừa và điều trị bệnh tăng huyết áp rất quan trọng.
Lối sống điều trị tăng huyết áp
Ăn mặn là một trong những nguyên nhân làm tăng huyết áp. Mỗi người tập thói quen ăn giảm bớt muối từ bữa ăn hằng ngày. Bình thường chúng ta ăn 4.000 – 6.000mg natri tương đương với 15g muối. Đối với người tăng huyết áp, nên ăn ít hơn 6g muối mỗi ngày. Trong thực tế, lượng muối có trong nhiều thức ăn và đồ uống, chúng ta nên thực hiện các chế độ ăn giảm muối thích hợp.
Từ từ giảm lượng muối từ nguồn trên bàn ăn như nước mắm, xốt tương hột, muối tiêu, bột canh… hạn chế các thức ăn mặn như tương, chao, mắm các loại, dưa cà trứng muối, cá khô. Các thức ăn chế biến sẵn như cháo, mì ăn liền, giò chả. Bằng cách này có thể giảm 3 – 5g muối/ngày.
Trong nấu nướng không nên nêm muối, mắm, tương, bột canh, bột ngọt. Có thể luộc rau, thịt bỏ nước để loại bỏ muối. Tuy nhiên cách giảm này khó thực hiện và ngày nay các bệnh viện dùng thuốc lợi tiểu tăng huyết áp nên người bệnh không phải ăn lạt quá mức.
Người bị tăng huyết áp cần phải giảm dần hút thuốc lá và tiến tới bỏ hẳn hút thuốc lá. Hoạt động thể lực đều đặn như đi bộ nhanh ít nhất 30 phút/ngày. Nam giới nếu uống rượu thì uống ở mức độ vừa phải: uống 2 ly rượu nhỏ, 720ml bia, 90ml whisky 80 độ. Phụ nữ và người nhẹ cân uống một nửa lượng trên.
Chất béo làm tăng mỡ xấu trong cơ thể như mỡ, gan, tim, cật, óc của động vật. Chúng ta nên ăn các loại chất béo có lợi như các loại mỡ cá, đậu phộng, bắp, cải, mè và các sản phẩm bơ sữa ít béo.
Các bước thực hiện để có được con số huyết áp chính xác
- Không uống thuốc và uống cà phê trước 30 phút
- Nghỉ ngơi trong phòng yên tĩnh 5 phút, nếu vừa hoạt động mạnh phải nghỉ 15 phút
- Tư thế đo chuẩn là ngồi ghế có tựa lưng, tay chân thả lỏng không được bắt chéo nhau
- Tầm ngang bao hơi quấn tay phải đặt ngang tim, mép dưới của bao cách lằn khuỷu tay 3cm
- Đo ít nhất hai lần cách nhau hai phút, nếu hai lần chênh nhau lớn hơn 5mmhg, cần đo thêm vài lần nữa để lấy trị số trung bình
- Nên đo cả hai tay, con số huyết áp cao hơn sẽ được lấy.
(Theo SGTT)
Cách đơn giản phòng tăng huyết áp
June 10th, 2011 admin
Bệnh cao huyết áp ngày càng trở nên phổ biến, gây nguy hại lớn tới sức khoẻ và cuộc sống. Những bí quyết ngừa bệnh đơn giản sau sẽ giúp giảm thiểu đáng kể nguy cơ mắc bệnh.
1. Duy trì cân nặng hợp lý
Những người thừa cân có nguy cơ cao mắc bệnh cao huyết áp. Vậy nên để giảm nguy cơ mắc bệnh, cần duy trì cân nặng cơ thể hợp lý.
2. Ăn nhiểu rau quả
Chế độ ăn khoẻ mạnh với nhiều rau quả tươi, ít chất béo và cholesterol luôn là cách duy trì sức khoẻ, ngăn ngừa và giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến tim mạch và huyết áp.
3. Ăn lạt
Ăn ít muối sẽ giúp ngăn ngừa huyết áp tăng cao, lượng muối khuyến cáo tốt cho sức khoẻ là 1 thìa muối nhỏ mỗi ngày. Các thực phẩm đóng gói sẵn thường có chứa nhiều muối vì thế cần đọc kỹ thành phần của thực phẩm trước khi sử dụng.
4. Tập luyện
Một cuộc sống với thời gian tập luyện từ 30 – 60 phút/ngày, 5 ngày 1 tuần sẽ giúp giảm huyết áp và ngăn ngừa mắc bệnh cao huyết áp.
5. Uống vừa phải đồ uống có cồn
Sử dụng nhiều đồ uống có cồn làm tăng huyết áp. Vậy nên cần hạn chế lượng đồ uống có cồn khoảng 2 chén một ngày. Đối với phụ nữ nên hạn chế không sử dụng đồ uống có cồn.
6. Giảm stress
Stress có thể gây tăng huyết áp và qua thời gian dài sẽ góp phần gây nên bệnh cao huyết áp. Thư giãn sẽ giúp giảm mắc bệnh huyết áp cao hiệu quả.
7. Không hút thuốc lá
Nhiều nghiên cứu cho thấy, những người hút thuốc thường có nguy cơ cao mắc các bệnh về huyết áp.
8. Kiểm tra nguồn nước dùng
Nguồn nước gia đình đang dùng có thể chứa nhiều natri, làm tăng nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp. Vậy nên cần kiểm tra kỹ nguồn nước đang sử dụng.
9. Chú ý lối sống
Lối sống đóng vai trò quan trọng đối với những người mắc bệnh tim mạch. Lối sống lành mạnh sẽ giúp ngăn ngừa và giảm đáng kể việc phải dùng thuốc điều trị bệnh.
(Theo dantri.com.vn)
Trị cao huyết áp bằng các loài hoa
June 10th, 2011 admin
Hoa đại 20-30 g hãm hoặc sắc uống thay trà, có thể thêm hoa hòe, hoa cúc và thảo quyết minh mỗi thứ 12 g. Theo y học hiện đại, dịch chiết hoa đại có tác dụng hạ huyết áp khá rõ rệt. Dân gian cho rằng hoa đại trắng có tác dụng mạnh nhất.
Thiên nhiên quanh ta có rất nhiều loài hoa vừa đẹp vừa có công dụng chữa bệnh. Trong đó có những loại được dùng để phòng chống cao huyết áp, căn bệnh đang có xu hướng gia tăng, gây những biến chứng nặng nề như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, suy thận…
Kim ngân hoa 15 g, cúc hoa 15 g, sơn tra 30 g, tang diệp (lá dâu) 10 g. Tất cả tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được; uống thay trà mỗi ngày 1 thang, 20 ngày là một liệu trình. Công dụng: Hạ mỡ máu và huyết áp, thích hợp cho trường hợp cao huyết có kèm theo rối loạn lipid máu. Trong bài, ba vị cúc hoa, sơn tra và tang diệp đều có tác dụng hạ huyết áp. Ngoài ra, sơn tra và cúc hoa còn có khả năng hạ mỡ máu và tăng cường lượng máu nuôi dưỡng cơ tim.
Cúc hoa lượng tùy ý, thu hái vào mùa thu, đem sấy hoặc phơi khô rồi tán thành bột mịn, đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày lấy 10-15 g bột thuốc ninh với 60-100 g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Thích hợp cho người bị cao huyết áp thuộc thể Can uất hóa hỏa, biểu hiện bằng các triệu chứng đau đầu, hoa mắt chóng mặt, mắt đỏ, mặt đỏ, hay cáu giận, miệng đắng họng khát, tiểu tiện vàng sẻn, chất lưỡi đỏ…
Hoa tam thất 3 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 2 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt, bình can, giáng áp, dùng thích hợp cho người bị cao huyết áp có kèm hoa mắt, chóng mặt, ù tai… Có thể phối hợp thêm với hoa hòe hoa 10 g và hoa cúc 10 g. Gần đây, loại hoa này đã được nhập nhiều từ Trung Quốc vào nước ta nên rất dễ kiếm và tiện sử dụng.
Tân di hoa (còn gọi là ngọc lan hoa) 3-6 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày, mỗi ngày dùng 2 ấm. Công dụng: Ích phế tiêu đàm, khứ phong thông khiếu, giáng áp, dùng cho người bị cao huyết áp, viêm mũi, đau đầu do co thắt mạch máu. Nghiên cứu hiện đại trên thực nghiệm và lâm sàng cho thấy, tân di hoa có tác dụng hạ huyết áp tương đối rõ rệt.
Hồng hoa 15 g, hòe hoa 15 g, hai vị đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt lương huyết, hoạt huyết khứ ứ, giáng áp. Thích hợp cho người bị cao huyết áp có các biểu hiện ứ huyết như có điểm đau nhói tựa kim châm cố định ở đầu, chất lưỡi có nhiều điểm ứ huyết và xuất huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi giãn rộng…
Cúc bách nhật (còn gọi là thiên nhật hồng, bách nhật hồng) 20 g, dã cúc hoa 20 g. Hai vị đem sắc kỹ lấy nước uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh can tán kết, tiêu thũng giải độc, giáng áp. Thích hợp cho người bị cao huyết thuộc thể Can uất hóa hỏa. Bài này nếu gia thêm hạ khô thảo 30 g thì hiệu quả càng cao.
Sơn tra hoa 6 g, sơn tra diệp 6 g. Hai vị hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Hạ mỡ máu và giáng áp, có tác dụng rất tốt cho những người bị cao huyết áp có kèm rối loạn lipid máu.
Hoa mẫu đơn 9-15 g, sắc uống mỗi ngày 1-2 liều. hợp cho những người bị cao huyết áp thuộc thể Can uất hóa hỏa.
Hoa mào gà 3-4 bông, đại táo 10 quả, hai vị sắc kỹ lấy nước uống thay trà. Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, hoa mào gà có tác dụng điều hòa nhịp tim, làm giảm lượng ôxy tiêu thụ của cơ tim và hạ huyết áp.
Đài hoa hướng dương 60 g sắc uống, có thể kết hợp thêm với râu ngô 30 g hoặc hạ khô thảo 15 g.
Trường xuân (hoa dừa cạn) 6 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Nếu cho thêm cúc hoa hoặc hoa hòe mỗi thứ 10 g thì càng tốt. Trà hoa dừa cạn còn có tác dụng phòng chống ung thư.
Hoa mai trắng 3 g, thảo quyết minh 10 g, hai thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Loại trà này còn có tác dụng phòng chống thiểu năng tuần hoàn động mạch vành tim và nhồi máu cơ tim.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Tìm ra bí mật của bệnh cao huyết áp
June 10th, 2011 admin
Nhờ một phát hiện có tính bước ngoặt mới đây, không lâu nữa, tình trạng cao huyết áp – nỗi lo của hàng trăm triệu người trên thế giới – sẽ được kiểm soát theo những cơ chế đơn giản như “tắt, bật” điện.
Theo Telegraph, các nhà khoa học Anh bước đầu đã tìm ra cơ chế gây tăng huyết áp ở người – nhờ thế họ hiểu được cơ thể kiểm soát huyết áp như thế nào, và vì sao mà quá trình này đôi khi bị rối loạn. Đây là một bước tiến có thể mang lại cách điều trị mới.
Nhóm khoa học từ Đại học Cambridge và Nottingham đã tìm ra điều này khi đang nghiên cứu chứng tiền sản giật – một tình trạng nguy hiểm do cao huyết áp gây ra ở các sản phụ.
Huyết áp trong cơ thể được hoóc môn có tên gọi angiotensins kiểm soát. Khi nồng độ của hoóc môn này quá cao, nó sẽ buộc các mạch máu co lại, làm tăng áp lực chảy máu trong mạch, tức là huyết áp.
Sau 20 năm nghiên cứu hoóc môn này, các nhà khoa học giờ đây tin rằng họ có thể tìm ra cách để kiềm chế không cho nó vượt quá mức, và từ đó kiểm soát được hiện tượng cao huyết áp.
“Chúng tôi đã tìm ra bước đầu tiên trong quá trình kiểm soát huyết áp”, giáo sư Robin Carrell từ Đại học Cambridge, nói.
(Theo vnexpress.vn)
Bài thuốc hay chữa tai biến mạch não
Tai biến mạch não là một bệnh mà do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Đây cũng là tai biến rất thường gặp ở người cao tuổi… Bệnh khởi phát đột ngột, phần lớn gây tử vong nhanh chóng hoặc để lại di chứng tàn phế nghiêm trọng.
Tai biến mạch não là một bệnh mà do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Đây cũng là tai biến rất thường gặp ở người cao tuổi… Bệnh khởi phát đột ngột, phần lớn gây tử vong nhanh chóng hoặc để lại di chứng tàn phế nghiêm trọng.
Nguyên nhân chủ yếu do tăng huyết áp và xơ vữa động mạch hoặc có thể kết hợp cả hai, còn có thể gặp ở bệnh nhân mắc các bệnh van tim như hẹp hở hai lá, bệnh nhân đái tháo đường, thiểu năng tuần hoàn não…
Mùa lạnh, bị gió lùa, uống bia rượu say, làm việc trí óc quá căng thẳng, tức giận, lo lắng quá mức, ăn quá no… là những hoàn cảnh thuận lợi gây ra tai biến mạch máu não
Tai biến mạch máu não theo y học cổ truyền thuộc phạm trù trúng phong. Phong có ngoại phong và nội phong. Tai biến mạch máu não thuộc nội phong.
Cháo trai cũng là một vị thuốc hiệu nghiệm chữa tai biến mạch não.
Nội phong được chia thành hai chứng là bế chứng và thoát chứng.
Bế chứng thường do phong động, đàm nghịch, biểu hiện tổng hợp là thần chí hôn mê (nóng), hàm răng nghiến chặt, hai tay nắm lại, đờm rãi ủng tắc, mạch huyền cấp hoặc hồng sáp, trong đó kèm theo hiện tượng nhiệt là “dương bế”, dương bế thường do phong đởm, nhiệt đởm gây ra.
Thoát chứng thường do chân khí bị bạo tuyệt, có những biểu hiện nguy hiểm đến tính mạng như mồ hôi ra thành giọt, chân tay quyết lạnh, mắt nhắm miệng há, tay xòe, hơi thở yếu đại tiểu tiện không tự chủ.
Trúng phong là bệnh cấp tính, diễn biến nhanh và nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng người bệnh vì vậy cần cấp cứu kịp thời ngay.
Để điều trị có hiệu quả phải căn cứ vào triệu chứng và nguyên nhân gây bệnh để xử lý đúng và thích hợp. Ngoài việc kết hợp điều trị bằng y học hiện đại và y học cổ truyền, các món ăn, bài thuốc cũng có tác dụng hỗ trợ đắc lực để giúp bệnh nhân nhanh chóng hồi phục, qua khỏi cơn nguy hiểm, giảm bớt biến chứng, di chứng.
Bài 1:
Nhân quả đào12g, thảo quyết minh 12g, tất cả sắc kỹ, cho vào ít mật quấy đều. Bài thuốc có tác dụng chữa chứng tăng huyết áp tắc mạch máu não. Không được dùng bài thuốc này cho người bị xuất huyết não.
Bài 2:
Cháo trai, sò: Dùng 50g trai, 50g con hàu (sò), cho 100g gạo tẻ vào nước trai, hàu nấu thành cháo, ăn mỗi ngày 2 lần. Điều trị có hiệu quả chứng tăng huyết áp tai biến mạch máu não, nhức đầu chóng mặt, gan dương thịnh. Chú ý những người mắc chứng hư hàn không được dùng.
Hoa cúc giúp hạ huyết áp.
Bài 3:
Cháo hoa cúc: Hoa cúc bỏ cuống, sấy khô, tán nhỏ. Mỗi lần dùng 100g gạo tẻ nấu cháo, khi cháo chín, cho 15g bột hoa cúc vào quấy đều, đun sôi vài phút là được, ăn vào hai bữa sáng, chiều. Hoặc có thể lấy mầm cây cúc tươi rửa sạch, thái nhỏ, cho vào 100g gạo tẻ, nấu thành cháo để ăn cũng được. Món cháo này phù hợp với những người mắc chứng trúng phong, huyết áp tăng, nhức đầu, chóng mặt. Chú ý những người cao tuổi, tỳ hư, đái đường không được dùng.
Bài 4:
Hoàng kỳ 15g, bạch thược sao vàng và quế mỗi thứ 15g, gừng tươi 15g, sắc kỹ, lấy nước bỏ bã. Lấy 100g gạo tẻ, 4 quả táo tầu, nước vừa đủ nấu thành cháo. Khi cháo chín cho nước thuốc vào quấy đều, mỗi ngày ăn một lần. Chữa di chứng sau tai biến mạch máu não (sau khi trúng phong, khí huyết đều hư, liệt nửa người, chân tay teo mềm không hoạt động được, lưỡi thâm, bựa lưỡi trắng, mạch vi hoạt…). Điều trị liên tục sẽ có hiệu quả, những người huyết áp không cao, xuất huyết não đã dừng khám chẩn đoán tắc mạch não có thể dùng bài thuốc này.
Bài 5:
Hoàng kỳ 10g, táo tầu 10 quả, đương qui 10g, kỷ tử 10g, thịt lợn nạc 100g thái lát. Tất cả cho vào ninh nhừ, cho ít gia vị, ăn thịt uống nước. Bài thuốc này có tác dụng bổ hư trợ dương, tăng cường khí huyết, sinh huyết. Thích hợp với người bị di chứng sau tai biến mạch máu não như teo chân tay, tê liệt, bán than bất toại… Chú ý những người mắc chứng ngoại cảm nóng, gan dương đều thịnh thì không được dùng bài thuốc này.
Bài 6:
Kỷ tử 30g, mạch môn đông 30g, sắc lấy nước uống thay nước chè, uống hết trong ngày. Chữa trị các chứng sau trúng phong như nhức đầu chóng mặt, nhìn không rõ, huyết áp tăng, mặt đỏ phừng phừng. Chú ý những người mắc bệnh chứng hư hàn, đại tiện lỏng không được dùng bài thuốc này.
Bài 7:
Thiên ma 100g, não lợn một bộ làm sạch cho vào bát, đổ nước vừa đủ, hấp cách thủy. Mỗi ngày hoặc cách ngày ăn một lần. Có hiệu quả chữa bán thân bất toại do tai biến mạch não.
Bài 8:
Vừng đen hòa với đường: Mỗi lần dùng hai thìa vừng đen đã rang chín, hòa một ít đường trắng, quấy đều, uống với nước sôi, có tác dụng sinh huyết, giãn cơ bắp, chữa bán thân bất toại.
Giun đất và khả năng điều trị tăng huyết áp
Y văn gọi các vị thuốc từ giun đất là Địa long (Rồng đất). Trong các tác dụng của Địa long thì hỗ trợ hạ huyết áp được quan tâm nhiều nhất. Ngoài ra, vị thuốc từ giun đất còn giúp dự phòng tai biến mạch máu não.
> Phòng bệnh gan bằng cây Diệp hạ châu đắng/ Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh
Trong cuốn “Bản thảo cương mục” nổi tiếng của y học cổ truyền Trung Hoa, giun là nguyên liệu sản xuất 40 bài thuốc, điều trị nhiều loại bệnh.
Y học cổ truyền của nhiều nước, trong đó có Việt Nam, dùng giun đất điều trị các bệnh về huyết áp, tim mạch, thần kinh, hen suyễn, sốt rét... Nghiên cứu hiện đại cho thấy giun đất chứa chất Lumbriferin giúp thanh nhiệt, hạ sốt. Các thành phần đạm trong giun có tác dụng kháng Histamin, làm giãn khí quản. Điều này lý giải việc y học cổ truyền thường dùng Địa long để trị hen suyễn, viêm phế quản, khó thở. Nó cũng chứa hàm lượng rất cao axit Linoleic, cùng khoáng chất vi lượng chống oxy hóa Selen giúp tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng trong cơ thể.
Chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật nuôi giun quế.
Ở Việt Nam, toa thuốc và tên bài thuốc sử dụng địa long chữa tai biến mạch máu não đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX, được in lại trong cuốn sách “Hai trăm bài thuốc quý” của lương y Lê Văn Tình vào năm 1940. Sau này, bài thuốc đã được ông Nguyễn An Định, con trai của nhà văn hóa Nguyễn An Ninh cho phổ biến trên một số tờ báo. Bài thuốc cũng đã được bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng Y tế phổ biến để sử dụng trong đợt chống dịch sốt xuất huyết tại các tỉnh miền Bắc năm 1969.
Người bệnh bị tăng huyết áp, tai biến mạch máu não có thể do vỡ mạch (huyết áp tăng cao, áp lực lên mạch máu não quá lớn dẫn tới vỡ mạch máu não), hoặc tắc mạch (tăng huyết áp thúc đẩy sự xuất hiện mảng xơ vữa và cục máu đông làm bít tắc mạch máu nuôi dưỡng một phần não). Do đó, việc dự phòng tai biến mạch máu não cần kiểm soát huyết áp ở ngưỡng an toàn và hạn chế các yếu tố nguy cơ hình thành cục máu đông.
Dung dịch cồn của giun có tác dụng giảm huyết áp từ từ và ổn định huyết áp lâu dài. Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc kết luận Enzyme Fibrinolytic trong giun đất có khả năng thủy phân mạnh mẽ, làm đứt các sợi Fibrin - tác nhân chính hình thành nên mảng xơ vữa và cục máu đông. Đây chính là cơ chế dùng Địa long giúp dự phòng tai biến mạch máu não do tắc mạch. Như vậy loài giun nào có hàm lượng Enzym Fibrinolytic càng cao thì tác dụng càng tốt.
Địa long hiện nay có trong viên uống thảo dược Hạ áp ích nhân. Đây là sản phẩm đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng tác dụng quý của giun quế với người bệnh tăng huyết áp.
Theo nghiên cứu của PGS - TS Nguyễn Thị Ngọc Dao và cộng sự thuộc Viện khoa Học và Công nghệ Việt nam, loài giun quế - Peryonix Escavatu có chứa hàm lượng Emzyme Fibrinolytic cao hơn các loài giun khác. Từ lợi ích này, giun quế hiện nay được nuôi theo quy trình chuẩn tại các trang trại lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân. Nhiều mô hình nuôi giun quế đã được phát triển tại khắp các tỉnh thành như: Sóc Sơn Hà Nội (trại giun PHT), Phú Hòa - Phú Yên (trại giun Thiên Phát), Đồng Nai, Bắc Giang...
Tác dụng của giun quế mở ra triển vọng lớn phát triển các bài thuốc từ Địa long cho người tăng huyết áp, vì hiện nay không nhiều chế phẩm vừa hạ huyết áp vừa dự phòng được tai biến mạch máu não.
Cao Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét